Mô hình Holdings – Hướng mở cho doanh nghiệp Việt
Holdings là một trong những mô hình công ty phổ biến nhất, thường được sử dụng tại các công ty đa quốc gia và đặc biệt là tại các doanh nghiệp tại Châu Á. Trong những năm qua, rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam thay thế mô hình doanh nghiệp cũ và sử dụng mô hình này như một cách để tối ưu hóa hoạt động doanh nghiệp. Trong bài viết này, Tản mạn tài chính sẽ đưa ra những lý thuyết cơ bản nhất xung quanh mô hình.
1) Đầu tiên, chúng ta cần hiểu mô hình Holdings là gì, nó khác gì với các mô hình kinh doanh khác?
Holdings là một dạng công ty hoạt động đa ngành, được thành lập với mục đích nắm giữ quyền kiểm soát tại các công ty khác. Mỗi công ty sẽ phụ trách một hoạt động riêng lẻ và thường mang tính bổ trợ nhau, trong đó, công ty mẹ (trong trường hợp này là holding) đóng vai trò là cổ đông lớn tại các công ty con nhưng không trực tiếp điều phối kinh doanh. Đây chính là điểm khác biệt của holdings so với tập đoàn khi tập đoàn sẽ nằm hoàn toàn quyền chỉ định kinh doanh, hay điều phối hoạt động. Công ty con trực thuộc holdings sẽ được tự chủ hơn trực thuộc tập đoàn hoặc tổng công ty.
2) Mức độ phổ biến
Mô hình holding rất phổ biến trên thế giới. Có thể kể đến như P&G (hàng tiêu dùng và chăm sóc sức khỏe), Berkshire Hathaway, Tata (ô tô), Baidu.
Doanh nghiệp Việt Nam vận dụng rất nhiều mô hình này trong thời gian qua với trào lưu các cổ đông sáng lập công ty A thành lập công ty B và chuyển phần sở hữu của A sang công ty. Có thể kể đến Lê Phước Vũ tập đoàn Hoa Sen (công ty holding của ông mang tên Tam Hỷ), Nguyễn Duy Hưng – Công ty Chứng khoán SSI (công ty con của ông mang tên NDH Việt Nam), Nguyễn Đăng Quang – Công ty CP Tập đoàn Masan (công ty con của ông mang tên Masan Holding)
3) Ưu điểm của mô hình:
a) Việc tách và phân rõ chức năng của từng công ty con sẽ dễ huy động vốn từ nhà đầu tư vào từng công ty con. Vì NĐT họ chủ yếu đầu tư vào một vài mảng chuyên ngành.
Việc tách công ty sẽ rút ngắn thời gian thẩm định cho NĐT và phù hợp với sở thích của từng nhà đầu tư (không phải đầu tư cho cả tập đoàn và không biết nguồn vốn mình sẽ chảy vào đâu). Bên cạnh đó, công ty mẹ có thể dùng công ty con B làm tài sản thế chấp để vay nợ cho công ty con C sử dụng. Nhờ đó, các công ty con có nhiều tiềm năng phát triển có nguồn vốn mạnh để hiện thức hóa cơ hội. (Masan Group)
b) Khi doanh nghiệp trả cố tức, holdings sẽ dùng số tiền này cho cơ hội đầu tư khác. Điều này nghĩa là ta có thể lấy tiền từ một công ty đã bão hòa hoặc tăng trưởng chậm sang đầu tư cho một công ty có nhiều viễn cảnh hứa hẹn hơn.
c) Tối ưu hóa chi phí doanh nghiệp bằng cách thực hiện các giao dịch cho vay giữa các công ty trong nội bộ, chuyển lợi nhuận và kết hợp với công ty được lập ở thiên đường thuế. (An Phát, CII cũng như hầu hết các tập đoàn đa quốc gia)
e) Đối với chủ sở hữu doanh nghiệp, Việc thành lập các công ty riêng như Holding mang lại nhiều lợi ích cho họ:
- Các công ty holding này đứng ra làm đại diện cho các quyền sở hữu => danh tính của các ông chủ đứng đằng sau đó ít được dư luận chú ý hơn (An Phát Holding)
- Giảm khoản thuế phải nộp: Nếu cổ đông của công ty là cá nhân thì khi nhận được cổ tức, cá nhân đó sẽ bị tính thuế 5%, nhưng nếu cổ đông đó là pháp nhân thì theo luật pháp Việt Nam hiện hành, sẽ khỏi phải bị khấu trừ thuế (Thế Giới Di Động)
- Cho phép các chủ nhân có thể chuyển nhượng tài sản của mình cho bạn bè cũng như cho các thành viên kế thừa trong gia đình. Đặc biệt đây là công cụ đơn giản khi bạn nắm giữ nhiều tài sản lớn trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Khi đó, thay vì phải chuyển nhượng từng tài sản một, giờ đây chỉ cần cổ phần hóa công ty holding này và chuyển nhượng cổ phần đó sang cho người khác, mọi chuyện sẽ đơn giản hơn rất nhiều. (Tata group của Ấn Độ là ví dụ điển hình)
4) Khuyết điểm của mô hình
Xung đột lợi ích giữa holding và cổ đông tại các doanh nghiệp con: các doanh nghiệp con luôn phải đối mặt, trung hòa 2 mục đích trái ngược nhau: phục vụ lợi ích chung của và phục vụ lợi ích cho các cổ đông còn lại. Thông thường, Holdings sẽ là người chiếm ưu thế trong cuộc chiến này vì nắm giữ quyền kiểm soát tại doanh nghiệp (chiếm trên 51% tỷ lệ cổ phiếu)
Ngô Hà An
Theo: BIGFund Việt Nam