Hôm qua (6.11), thị trường chứng khoán nhiều nơi tăng cao còn giá vàng lao dốc sau khi ông Donald Trump đắc cử Tổng thống Mỹ.
Chứng khoán “xanh mướt”, vàng lao dốc
Thị trường chứng khoán (TTCK) VN khép lại phiên giao dịch hôm qua trong sắc xanh. Chỉ số VN-Index tăng 15,52 điểm, tương đương tăng 1,25%, lên 1.261,28 điểm; HNX-Index tăng 2,91 điểm (1,29%) lên 227,76 điểm và UPCoM-Index cộng thêm 0,87% lên 92,71 điểm. Giá trị giao dịch của thị trường cũng tăng cao, tổng cộng đạt gần 15.869 tỉ đồng, tăng gần 30% so với phiên trước đó. Không chỉ VN, TTCK toàn cầu cũng có một phiên giao dịch hứng khởi.
Chẳng hạn, chỉ số Nikkei 225 của Nhật Bản chốt phiên tăng 2,61% lên 39.480,67 điểm; Taiwan Taiex Index của Đài Loan tăng 0,48% lên 23.217,38 điểm; Straits Times Index của Singapore cộng thêm 0,6% lên 3.602,99 điểm…, hầu hết các TTCK châu Âu mở cửa giao dịch đầu phiên (tính đến 18 giờ ngày 6.11 giờ VN) cũng đang “xanh mướt”. Riêng TTCK Mỹ đã có phiên ngập tràn sắc xanh trong ngày 5.11 và các chỉ số tương lai cũng ghi nhận đà tăng, báo hiệu phiên giao dịch 6.11 (đóng cửa vào rạng sáng nay 7.11 giờ VN) cũng khởi sắc.
Ngược lại, đến 16 giờ hôm qua, giá vàng thế giới giảm xuống còn 2.724 USD/ounce, thấp hơn ngày hôm trước 20 USD. Thậm chí trong phiên, giá kim loại quý có thời điểm lao dốc xuống mức thấp 2.717 USD/ounce. Giá vàng giảm mạnh sau nhiều ngày đứng ở mức cao quanh 2.740 – 2.745 USD/ounce. Áp lực chốt lời cũng xuất hiện khi giá vàng “quay xe” lao dốc.
Đà lao dốc của giá kim loại quý thế giới đã tác động đến giá vàng tại VN. Mặc dù giá vàng miếng SJC vẫn duy trì ở mức mua vào 87 triệu đồng/lượng, bán ra 89 triệu đồng như những ngày đầu tuần nhưng vàng nhẫn trên thị trường giảm mạnh. Cụ thể, vàng nhẫn 4 số 9 được SJC mua vào 86,4 triệu đồng/lượng, bán ra 87,9 triệu đồng, giảm 300.000 đồng so với buổi sáng nhưng giảm tổng cộng 600.000 đồng so với một ngày trước đó. Công ty CP vàng bạc đá quý Phú Nhuận (PNJ) mua vào 87 triệu đồng, bán ra 88,2 triệu đồng, giảm 300.000 – 400.000 đồng; Tập đoàn Doji mua vào 87,3 triệu đồng, bán ra 88,4 triệu đồng, giảm 100.000 – 200.000 đồng… Nếu so với vùng đỉnh 89,5 triệu đồng/lượng tuần trước, mỗi lượng vàng nhẫn hiện đã “bốc hơi” hơn 1,5 triệu đồng. Biến động trái chiều của TTCK và giá vàng được nhiều chuyên gia tài chính nhận định là phản ứng của thị trường đối với việc ông Donald Trump chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ.
Theo chuyên gia đầu tư tài chính Phan Dũng Khánh, TTCK Mỹ và cả VN gia tăng sau kết quả nói trên là điều đã được dự báo. Tương tự đối với giá vàng, các nhà đầu tư (NĐT) đã thực hiện chốt lời theo kiểu “tin ra là bán” vì cũng đã đạt được kỳ vọng. Bên cạnh đó, giá USD thế giới tăng cao với chỉ số USD-Index có lúc lên 105 điểm cũng là nguyên nhân đẩy giá vàng đi xuống. “Theo thống kê của Hội đồng vàng thế giới, trong 4 cuộc bầu cử tổng thống Mỹ gần đây, giá vàng không có biến động nhiều trong ngắn hạn.
Thay vào đó, mức độ tác động đến giá vàng sẽ mang tính chất trung và dài hạn sau khi cuộc bầu cử kết thúc. Tuy nhiên, thống kê của Hội đồng vàng thế giới cũng cho thấy giá vàng có biến động tăng giảm khác nhau trong thời gian nắm quyền của mỗi nhiệm kỳ tổng thống Mỹ. Theo đó, trong nhiệm kỳ của Tổng thống George H.W Bush (hay còn gọi là Bush cha, nhiệm kỳ 1989 – 1993), giá vàng giảm 19%. Đến thời Tổng thống George W. Bush (Bush con, nhiệm kỳ 2001 – 2009), giá vàng tăng tới 215%. Đến thời kỳ của Tổng thống Barack Obama (2009 – 2017), giá vàng tăng 44% và trong 3 nhiệm kỳ tổng thống gần đây, giá vàng đều tăng”, ông Khánh dẫn chứng.
Vàng sẽ còn giảm và chứng khoán nhiều cơ hội đi lên ?
Chuyên gia kinh tế, TS Đinh Thế Hiển phân tích diễn biến của TTCK nhiều nơi và thị trường vàng trong phiên hôm qua được xem là ngắn hạn vì đây là 2 thị trường luôn phản ứng nhanh nhạy nhất với mọi thông tin, đặc biệt là kết quả bầu cử tổng thống Mỹ với chiến thắng của ông Donald Trump. Đây cũng là xu hướng dài hạn bởi trong nhiệm kỳ trước đây và bày tỏ quyết sách sắp tới, ông Donald Trump luôn hướng đến việc phát triển kinh tế Mỹ, làm cho nước Mỹ hùng mạnh trở lại. Tuy nhiên, dù luôn tỏ ra cứng rắn nhưng trong nhiệm kỳ của ông vẫn không phát sinh cuộc xung đột quân sự nào.
Một chính sách quan trọng nữa là ông luôn muốn hạn chế sự bất cân xứng trong thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc cũng như với nhiều nước nhưng vẫn tạo điều kiện hai bên cùng có lợi. Riêng đối với VN, quyết sách của ông Trump có thể tạo điều kiện xuất khẩu gia tăng khi kinh tế Mỹ tăng trưởng cao hơn nhưng đồng thời cũng phải đối mặt với vấn đề nước này muốn hạn chế chuyện nhập siêu quá lớn từ VN. Song song đó, dòng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) vào VN sẽ tiếp tục tăng cao khi các tập đoàn, nhà đầu tư ngoại vẫn không muốn tập trung ở Trung Quốc để tránh rủi ro trong quan hệ thương mại với Mỹ. Riêng đối với TTCK, dòng vốn đầu tư nước ngoài chưa thể quay trở lại ngay mà có thể cần khoảng 6 – 7 tháng sau.
“TTCK VN đang có nhiều cơ hội tăng tốc nhưng có thể phải đến giữa năm sau điều này mới rõ ràng khi dòng vốn ngoại quay trở lại mạnh hơn. Đồng thời, dòng vốn của các NĐT trong nước khi đó mới tăng tốc. Vì vậy trong vài tháng tới TTCK có thể cũng còn lình xình quanh mức hiện nay. Riêng đối với giá vàng thì nếu không còn những cuộc xung đột quân sự hay những căng thẳng hiện tại giảm xuống thì cũng không có lý do để tăng cao trở lại”, TS Đinh Thế Hiển cho hay.
Đồng quan điểm, ông Phan Dũng Khánh cho rằng trong vài tháng tới, giá vàng sẽ có 2 kịch bản xảy ra. Thứ nhất, kim loại quý vẫn có đà tăng nhưng chậm lại và đi ngang mà rất khó tăng mạnh. Thứ hai là kịch bản quay đầu đi xuống. Hiện ông Khánh nghiêng về kịch bản đầu tiên. Trong khi đó, USD trên thế giới vẫn có xu hướng tăng cao. Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) được xem là cơ quan độc lập và chính sách tiền tệ của Fed vẫn tiếp tục xu hướng nới lỏng, giảm lãi suất. Dù mức giảm lãi suất của Fed có thể chậm nhưng các ngân hàng trung ương khác cũng giảm nên USD vẫn mạnh hơn. Khi USD tăng cao sẽ tác động ngược đến giá vàng trong khi TTCK có thể hưởng lợi. Thị trường VN cũng chịu tác động phần nào từ TTCK Mỹ nhưng không nhiều. Hiện tại, yếu tố tích cực cho TTCK trong nước khá nhiều dù vẫn chưa “ngấm” mà cần thêm thời gian nhưng xu hướng dài hạn sẽ tăng nhiều hơn.
(Dân trí) – Bộ Tài chính đề xuất tiếp tục áp dụng mức thuế bảo vệ môi trường với xăng là 2.000 đồng/lít; nhiên liệu bay, dầu diesel, dầu mazut, dầu nhờn 1.000 đồng/lít; mỡ nhờn 1.000 đồng/kg… trong năm 2025.
Bộ Tài chính đang lấy ý kiến góp ý với dự thảo Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn trong năm 2025.
Từ ngày 1/1/2025, mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn sẽ quay về mức trần trong biểu khung thuế ban hành kèm theo Luật Thuế bảo vệ môi trường, trừ dầu hỏa. Điều này sẽ tác động làm tăng giá bán lẻ trong nước, theo Bộ Tài chính.
Cũng theo Bộ này, năm 2025, kinh tế thế giới cũng như nền kinh tế trong nước vẫn tiềm ẩn nhiều yếu tố tác động bất lợi đến việc hoàn thành các mục tiêu về tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô.
Do vậy, Bộ Tài chính trình Chính phủ để trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết về mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn áp dụng trong năm 2025 tương tự như mức đang áp dụng.
Cụ thể, thuế bảo vệ môi trường với xăng (trừ etanol) dự kiến trong 2025 vẫn là 2.000 đồng/lít; nhiên liệu bay, dầu diesel, dầu mazut, dầu nhờn là 1.000 đồng/lít; mỡ nhờn là 1.000 đồng/kg; dầu hỏa là 600 đồng/lít.
Thuế bảo vệ môi trường với các mặt hàng (Ảnh: Thảo Thu).
Từ năm 2026, thuế bảo vệ môi trường dự kiến quay về mức trần, theo quy định là xăng (trừ etanol) là 4.000 đồng/lít; nhiên liệu bay 3.000 đồng/lít; dầu diesel, dầu mazut, dầu nhờn là 2.000 đồng/lít; dầu hỏa là 1.000 đồng/lít; mỡ nhờn là 2.000 đồng/kg.
Với sản lượng tiêu thụ xăng, dầu, mỡ nhờn năm 2025 tương đương năm nay, Bộ Tài chính ước tính tổng ngân sách Nhà nước giảm thu khoảng 44.224 tỷ đồng, gồm hơn 40.204 tỷ đồng giảm thuế bảo vệ môi trường và hơn 4.020 tỷ đồng thuế giá trị gia tăng.
Trước đó, số giảm thu ngân sách Nhà nước năm 2023 là khoảng hơn 34.473 tỷ đồng. Riêng 9 tháng năm nay, số giảm ước tính khoảng 28.900 tỷ đồng (chưa bao gồm giảm thu thuế giá trị gia tăng).
Dù biểu lãi suất niêm yết được các ngân hàng công bố một cách chính thức, nhưng lãi suất thực tế lại tuỳ thuộc vào chính sách lãi suất cũng như sản phẩm tiết kiệm của từng ngân hàng.
Theo chính sách lãi suất đối với tiền gửi trực tuyến tại Ngân hàng SeABank, khách hàng sẽ nhận được ưu đãi lãi suất lên đến 0,5%/năm khi gửi tiết kiệm trực tuyến, áp dụng với số tiền gửi từ 100 triệu đồng cho các kỳ hạn 6, 12, 13 tháng.
Theo biểu lãi suất huy động trực tuyến lĩnh lãi cuối kỳ của nhà băng này, lãi suất huy động kỳ hạn 1-2 tháng là 2,95%/năm, kỳ hạn 3-5 tháng 3,45%/năm, kỳ hạn 6 tháng 3,95%/năm, kỳ hạn 7 tháng 4,05%/năm, kỳ hạn 8 tháng 4,1%/năm, kỳ hạn 9 tháng 4,15%/năm, kỳ hạn 10 tháng 4,2%/năm, kỳ hạn 11 tháng 4,25%/năm, kỳ hạn 12 tháng 4,7%/năm, kỳ hạn 15 tháng 5,25%/năm, kỳ hạn 18-36 tháng 5,45%/năm.
Với chính sách cộng thêm 0,5%/năm lãi suất dành cho khách hàng gửi từ 100 triệu đồng, lãi suất ngân hàng kỳ hạn 6 tháng của SeABank sẽ lên đến 4,45%/năm và lãi suất ngân hàng kỳ hạn 12 tháng lên đến 5,2%/năm.
Tuy nhiên, lãi suất huy động cao nhất, theo nội dung tấm biển đang được đặt trước các phòng giao dịch của SeABank, lên đến 5,95%/năm.
Mức lãi suất huy động 5,95%/năm dù cao hơn so với lãi suất niêm yết nhưng chưa phải là lãi suất huy động cao nhất tại SeABank. Ảnh: Hoàng Hà.
Trên thực tế, lãi suất huy động cao nhất khi khách hàng gửi tiết kiệm tại ngân hàng này có thể lên đến 5,25%/năm đối với kỳ hạn 6 tháng, 6,15%/năm đối với kỳ hạn 12 tháng theo lời giới thiệu của nhân viên SeABank khi gọi điện mời khách hàng gửi tiền.
Do đó, chênh lệch giữa lãi suất niêm yết và lãi suất thực tế tại SeABank có thể lên đến 1,3%/năm đối với kỳ hạn 6 tháng. Thậm chí mức chênh lệch lên đến 1,45% đối với kỳ hạn 12 tháng.
Không chỉ SeABank, Ngân hàng TMCPÁ Châu (ACB) mới đây cũng gửi email thông báo lãi suất tiền gửi một số kỳ hạn cao hơn so với lãi suất niêm yết.
Theo đó, lãi suất tiền gửi kỳ hạn 3 tháng lên tới 4,2%/năm khi gửi tiết kiệm trực tuyến, trong khi lãi suất huy động trực tuyến theo biểu lãi suất niêm yết chính thức của ngân hàng này chỉ 3,5%/năm.
Không dừng lại ở đó, ACB còn cộng thêm 0,8%/năm lãi suất so với tiền gửi tại quầy cho các kỳ hạn khác.
ACB nằm trong nhóm các ngân hàng thương mại niêm yết lãi suất huy động thấp nhất hiện nay.
Ngoài ra, một số ngân hàng như PVCombank, GPBank, PGBank,… dù không chính thức tăng lãi suất nhưng cũng đặt các tấm biển quảng cáo lãi suất tiền gửi khá cao phía trước các điểm giao dịch. Mức lãi suất này không được công bố một cách chính thức trong các biểu lãi suất do ngân hàng niêm yết.
Trong khi đó, Ngân hàng MSB ngoài việc niêm yết biểu lãi suất huy động trực tuyến với lãi suất cao nhất 5,6%/năm, áp dụng cho tiền gửi kỳ hạn 12-36 tháng, nhà băng này còn duy trì hai mức “lãi suất đặc biệt” dành cho khách hàng VIP và khách hàng bình dân.
“Lãi suất đặc biệt” dành cho khách hàng VIP lên đến 7%/năm với điều kiện khách hàng gửi từ 500 tỷ đồng, kỳ hạn 12-13 tháng.
“Lãi suất đặc biệt” được MSB áp dụng cho khách hàng bình dân là 5,3%/năm khi gửi tiết kiệm kỳ hạn 6 tháng (trong khi niêm yết chính thức là 4,8%/năm khi gửi trực tuyến). Các kỳ hạn 12 tháng, 15 tháng, và 24 tháng cũng có “lãi suất đặc biệt” 5,9%/năm (niêm yết chính thức là 5,6%/năm).
Bên cạnh đó, MSB còn có một số sản phẩm tiết kiệm mang tính đặc thù, với mức lãi suất 4%/năm (kỳ hạn 12 và 24 tháng). Mức lãi suất này thấp hơn lần lượt 1,3%/năm và 1,6%/năm so với lãi suất huy động tại quầy và lãi suất huy động trực tuyến.
BIỂU LÃI SUẤT HUY ĐỘNG TRỰC TUYẾN TẠI CÁC NGÂN HÀNG NGÀY 2/11/2024 (%/NĂM)
Công ty TNHH Công Nghệ Shunsin Việt Nam thuộc Foxconn đang xin cấp phép môi trường cho dự án đầu tư 80 triệu USD vào Bắc Giang để sản xuất, gia công chip.
Trong Báo cáo Đánh giá tác động môi trường đang xin ý kiến Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Shunsin cho biết sẽ góp 20 triệu USD để thực hiện dự án. Ngoài ra, vốn vay và huy động là 60 triệu USD, tương đương 75% tổng vốn đầu tư.
Mục tiêu của dự án là sản xuất, gia công linh kiện điện tử (bản mạch tích hợp) với tổng quy mô công suất 4,5 triệu sản phẩm một năm. Các sản phẩm được xuất khẩu 100% cho Mỹ, EU, Nhật Bản.
Mạch tích hợp (integrated circuit – IC), còn được gọi là chip, là tập các mạch điện chứa các linh kiện bán dẫn như bóng bán dẫn (transistors), điện trở (resistors), và tụ điện (capacitors), để thực hiện một chức năng nhất định.
Shunsin dự kiến hoàn thành các thủ tục, bao gồm giấy cấp phép xây dựng vào tháng 12, sau đó xây dựng các hạng mục công trình và lắp đặt máy móc thiết bị tới tháng 5/2026. Dự án đặt kế hoạch vận hành thử nghiệm từ tháng 6/2026 và vận hành chính thức từ tháng 12/2026.
Dự án này có tổng diện tích quy hoạch là 44.343,8 m2 trong KCN Quang Châu tỉnh Bắc Giang, được chủ dự án thuê lại của Công ty cổ phần Khu công nghiệp Sài Gòn – Bắc Giang. Đây là công ty con của Tổng Công ty Phát triển Đô Thị Kinh Bắc (HoSE: KBC), một đơn vị lớn trong ngành bất động sản công nghiệp.
Khi hoạt động sản xuất ổn định đạt 100% công suất thiết kế, dự kiến dự án cần khoảng 1.450 người, trong đó có 35 người nước ngoài.
Shunsin khẳng định sẽ sử dụng công nghệ khép kín, vốn áp dụng rộng rãi tại nhà máy của họ ở Trung Quốc. Các dây chuyền sản xuất có mức độ tự động hoá cao, hiện đại và an toàn cho người lao động, đảm bảo và vận hành trong thời gian dài, nâng cao năng suất lao động.
Foxconn là tập đoàn gia công linh kiện điện tử và máy tính lớn nhất thế giới của Đài Loan. Tập đoàn này đang trong quá trình chuyển dịch đầu tư, mở rộng sản xuất tại Việt Nam. Trong một báo cáo gửi tỉnh Bắc Giang, Foxconn cho biết họ muốn mở rộng đầu tư vào Bắc Giang, “dựa trên vào chiến lược dịch chuyển khỏi Trung Quốc của tập đoàn và nhu cầu thực tế của các khách hàng lớn”.
Foxconn bắt đầu xây dựng nhà xưởng tại Bắc Ninh, Bắc Giang và một số tỉnh của Việt Nam từ tháng 3/2007 và sản xuất đa dạng sản phẩm, từ máy tính, công nghệ thông tin, hàng điện tử tiêu dùng, linh kiện ôtô đến thiết bị bán dẫn.
Một dự án nổi bật của Foxconn tại Bắc Giang là Fukang Technology có vốn đầu tư hơn 12.507 tỷ đồng. Đơn vị này đang xin cấp phép môi trường cho hệ thống xử lý khí thải dây chuyền sản xuất iPad, Macbook tại nhà máy ở tỉnh này.
Giá thuê đất thương mại dịch vụ của TP HCM dự kiến tăng trung bình từ 18-53%, theo dự thảo mới của Sở Tài Chính.
Sở Tài chính TP HCM đang lấy ý kiến về đề xuất quy định mức tỷ lệ phần trăm tính đơn giá thuê đất; đất xây dựng công trình ngầm (không phải là phần ngầm của công trình trên mặt đất) và đất có mặt nước. Đây sẽ là mức tỷ lệ được áp dụng làm căn cứ tính tiền thuê đất trên địa bàn thành phố.
Theo đề xuất, tỷ lệ phần trăm tính đơn giá thuê đất hàng năm với nhóm thương mại, dịch vụ khu vực 1 (quận 1, 3, 4, 5, 10, Phú Nhuận) sẽ là 1,5%, khu vực 2 (TP Thủ Đức, các quận 6, 7, 8, 11, 12, Bình Thạnh, Bình Tân, Tân Bình, Tân Phú, Gò Vấp) là 1% và khu vực 3 (huyện Hóc Môn, Củ Chi, Bình Chánh, Cần Giờ, Nhà Bè) 0,75%.
Bất động sản khu Nam TP HCM, đoạn qua huyện Nhà Bè, tháng 7/2024. Ảnh: Quỳnh Trần
Với đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp (không phải là đất thương mại dịch vụ mục đích kinh doanh) cũng sẽ được xác định theo từng khu vực gồm: khu vực 1 áp dụng tỷ lệ 1%; khu vực 2 tỷ lệ là 0,75%; khu vực 3 là 0,5%.
Riêng đất nông nghiệp, tỷ lệ tương ứng 0,25%, đất trong Khu công nghệ cao, Khu công viên phần mềm Quang Trung là 0,5%.
Công thức tính giá thuê đất sẽ là: Giá thuê = tỷ lệ phần trăm tính đơn giá (x) giá đất theo bảng giá điều chỉnh.
Hiện nay, theo Quyết định 50/2014, giá thuê đất hàng năm (không thông qua hình thức đấu giá) được chia làm 4 khu vực với tỷ lệ % tính tiền thuê đất là từ 1,6-2% với đất kinh doanh dịch vụ, thương mại; tài chính; nhà hàng; khách sạn; nhà ở cho thuê; văn phòng… ; khoảng 1,1-1,5% với đất sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; kho xưởng; công trình công cộng, thương mại dịch vụ… Và 1% với đất tại các khu công nghiệp, khu chế xuất; bến cảng, sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản…
Như vậy, dự thảo của Sở Tài Chính đã giảm mức tỷ lệ % tính tiền thuê đất xuống khá sâu, tuy nhiên do bảng giá đất điều chỉnh tăng mạnh (5-38 lần, chưa nhân hệ số K) so với giá cũ nên giá thuê đất trả tiền hàng năm vẫn tăng cao.
Hiệp hội bất động sản TP HCM (HoREA) dẫn chứng, theo cách tính trước đây của Quyết định 50, đơn giá thuê đất hàng năm Khu chế xuất Linh Trung (đường số 1, phường Bình Chiểu, TP Thủ Đức) hiện có tỷ lệ % đơn giá thuê là 1,3%, giá đất theo Quyết định 02 là 4,2 triệu đồng mỗi m2, hệ số điều chỉnh là 3,3 thì đơn giá thuê đất hàng năm sẽ là 4,2 x 3,3 x 1,3% = 180.000 đồng mỗi m2.
Tuy nhiên, nếu tính theo dự thảo mới, dù tỷ lệ % giảm xuống là 0,75% nhưng giá đất đường số 1 theo Quyết định 79 hiện lên đến 39,7 triệu đồng mỗi m2. Vì vậy giá thuê đất hàng năm sẽ là 39,7 x 0,75% = 298.000 đồng mỗi m2, tăng 65%so với trước đây.
Sở Tài Chính cho biết nếu theo tỷ lệ phần trăm của dự thảo, giá thuê đất phi nông nghiệp trên toàn TP HCM dự kiến tăng từ 35-50%. Tăng mạnh nhất rơi vào khu vực 2 và 3, lần lượt 54% và 50%. Còn với giá thuê đất thương mại, dịch vụ, mức tăng trung bình theo từng khu vực sẽ lần lượt là 18%, 25% và 53%. Nếu chỉ tính riêng khu vực trung tâm và nội thành, mức tăng trung bình không quá 25% so với đơn giá tính theo quy định cũ.
Sở này cho rằng sự thay đổi trên phản ánh đúng giá thuê đất trên thị trường. Đây là mức tăng tất yếu khi thành phố điều chỉnh bảng giá đất theo hướng tiệm cận với giá thị trường và trong ngưỡng chịu được của nền kinh tế. Còn với khu vực ngoại thành, trước đây có giá đất quy định tại bảng giá rất thấp, sau khi điều chỉnh bảng giá đất, khu vực này có mức tăng chênh lệch khá lớn với khu vực nội thành.
Dẫu vậy, theo Hiệp hội bất động sản TP HCM, bảng giá đất điều chỉnh đang làm giá đất tăng cao, nếu tính theo mức tỷ lệ % được Sở Tài Chính đề xuất, giá thuê đất tại nhiều khu vực sẽ rất cao, gây khó khăn cho doanh nghiệp.
Hiệp hội này đề xuất nên giảm tỷ lệ % tính đơn giá thuê đất ở mỗi nhóm xuống 0,25%. Như vậy nhóm đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp sẽ có tỷ lệ % khu vực 1 là 0,75%, khu vực 2 là 0,5%, khu vực 3 tương ứng 0,25%. Đối với đất thương mại, dịch vụ, mức tỷ lệ % sẽ là 1,25%, 0,75% và 0,5% lần lượt cho ba khu vực.
Sau một tháng vận hành thương mại, Tổ hợp Hoá dầu Long Sơn (LSP) đã tạm ngưng hoạt động từ giữa tháng 10 để kiểm soát chi phí.
Ngày 31/10, khi thông báo kết quả hoạt động quý III năm nay, Chủ tịch và CEO của SCG Thammasak Sethaudom cho biết tổ hợp LSP đã “tạm ngưng” hoạt động để kiểm soát chi phí hoạt động cùng với kế hoạch tái khởi động khi các điều kiện phù hợp hơn. SCG – Công ty mẹ của SCG Chemicals (SCGC) là chủ đầu tư tổ hợp hóa dầu Long Sơn.
Ông Thammasak Sethaudom cho biết quyết định này nằm trong chương trình kiểm soát giá nguyên liệu và nhu cầu đầu ra của sản phẩm trong tình hình chung kinh tế thế giới để tối đa khả năng cạnh tranh, dành cho nhà máy LSP (Việt Nam) và 2 nhà máy Map Ta Phut Olefins và Rayong Olefins ở tỉnh Rayong (Thái Lan).
Trước đó, tổ hợp này vừa được vận hành thương mại ngày 30/9. Đây là tổ hợp hóa dầu tích hợp đầu tiên tại Việt Nam, có vốn đầu tư hơn 5 tỷ USD, là dự án FDI lớn nhất tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và hàng đầu cả nước.
Đồng thời, lãnh đạo SCG cũng cho biết họ sẽ đầu tư thêm 700 triệu USD vào tổ hợp hóa dầu này để mở rộng dự án có thể sử dụng ethane làm nguyên liệu. Việc mở rộng này sẽ được thực hiện bằng nguồn vốn nội bộ của SCG.
Việc này đang chờ ý kiến của các cơ quan Việt Nam và dự kiến hoàn thành vào cuối năm 2027. SCG cho biết ethane sẽ được nhập khẩu từ Mỹ làm nguyên liệu cho tổ hợp hóa dầu Long Sơn và quá trình này có lợi ở việc giảm giá nguyên liệu đầu vào, khả năng linh hoạt trong hoạt động, và giảm lượng khí thải carbon.
SCG khẳng định quy trình sản xuất olefin của tổ hợp hóa dầu Long Sơn vốn đã có phương án linh hoạt sử dụng các loại khí làm nguyên liệu. Phần lớn của khoản đầu tư 700 triệu USD sẽ dành cho việc xử lý và lưu trữ ethane làm nguyên liệu, với yêu cầu chính là cần được bảo quản ở âm (-) 90 độ C. Khi hoàn thiện, ethane sẽ chiếm 2/3 nguyên liệu của tổ hợp hóa dầu Long Sơn và phần còn lại là propane và naphtha.
Tổ hợp hóa dầu Long Sơn bao gồm nhà máy thượng nguồn olefin; 3 nhà máy hạ nguồn polyolefin (HDPE, LLDPE và PP) và các hạ tầng liên quan như cụm cảng.
LSP có tổng công suất thiết kế 1,4 triệu tấn hạt nhựa olefin một năm, sản xuất nhiều sản phẩm hóa dầu đa dạng, bao gồm các chất liệu nhựa thiết yếu như polyethylene mật độ cao (HDPE), polyethylene mật độ thấp tuyến tính (LLDPE) và polypropylene (PP). Các sản phẩm của tổ hợp này còn là nguyên liệu cơ bản cho nhiều ngành công nghiệp khác như: đóng gói bao bì, sản xuất nông nghiệp, thiết bị điện, phụ tùng ôtô…
Việt Nam đang nhập khẩu khoảng 2,85 triệu tấn nguyên liệu polyolefin (hạt nhựa) mỗi năm. Khi nhà máy của LSP đi vào vận hành thương mại, sản lượng 1,4 triệu tấn một năm sẽ giúp giảm nhập khẩu mặt hàng này, củng cố khả năng tự cung trong nước và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
LSP cũng cam kết chú trọng phát triển bền vững, an toàn và thân thiện với môi trường. Khi hoạt động ở công suất tối đa, mỗi năm tổ hợp LSP dự kiến đạt doanh thu 1,5 tỷ USD, đóng góp khoảng 150 triệu USD cho ngân sách Nhà nước.
Dự án này đã trải qua nhiều biến động khi được cấp giấy chứng nhận đầu tư từ tháng 7/2008, thay đổi cổ đông dẫn tới SCG thành nhà đầu tư duy nhất từ tháng 6/2018 cùng với tăng vốn đầu tư lên hơn 5 tỷ USD
(TBTCO) – 100% các đảng bộ, chi bộ trực thuộc Đảng ủy Bộ Tài chính xây dựng chương trình hoặc kế hoạch triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 45-NQ/TW phù hợp với đặc điểm, tình hình, gắn với nhiệm vụ, chuyên môn của từng cơ quan, đơn vị.
Ngày 3/10/2024, Đảng ủy Bộ Tài chính ban hành Chương trình hành động số 15 -Ctr/ĐUBTC thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa 13 về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới của Đảng bộ Bộ Tài chính.
Hội nghị Ban chấp hành Đảng bộ Bộ Tài chính thường kỳ. Ảnh: Đức Minh
Đảng uỷ Bộ Tài chính đặt mục tiêu tổ chức nghiên cứu, quán triệt, tuyên truyền sâu rộng các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu của nghị quyết số 45-NQ/TW.
Đồng thời, nâng cao nhận thức của các cấp trong toàn Đảng bộ, nhất là người đứng đầu về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của việc xây dựng đội ngũ trí thức trong giai đoạn hiện nay; xác định xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức là trách nhiệm của toàn xã hội, của cả hệ thống chính trị, của Đảng và Nhà nước, trong đó có trách nhiệm của các cấp ủy đảng trong Đảng bộ Bộ Tài chính.
Tại kế hoạch hành động này, Đảng uỷ Bộ Tài chính đề nghị các đơn vị xác định chỉ tiêu, nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp chủ yếu để triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết, phù hợp với điều kiện thực tế của Đảng bộ Bộ Tài chính.
Ngoài ra, cụ thể hóa quan điểm, mục tiêu, các nhiệm vụ và giải pháp trong Nghị quyết số 45-NQ/TW phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, đặc thù của Đảng bộ Bộ Tài chính: Thực hiện phân công nhiệm vụ rõ ràng, có lộ trình thời gian, biện pháp phù hợp với đặc điểm, tình hình thực tế trong Đảng bộ Bộ Tài chính.
Thường xuyên đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết, kịp thời bổ sung, cập nhật những chủ trương, chính sách, nhiệm vụ và giải pháp mới vào Chương trình hành động trong quá trình triển khai thực hiện để đáp ứng yêu cầu thực tiễn đề ra.
Đảng uỷ Bộ Tài chính đặt ra chỉ tiêu cụ thể: 100% đảng viên Đảng bộ Bộ Tài chính được phổ biến, học tập, nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết số 45-NQ/TW.
100% các đảng bộ, chi bộ trực thuộc xây dựng chương trình hoặc kế hoạch triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 45-NQ/TW phù hợp với đặc điểm, tình hình, gắn với nhiệm vụ, chuyên môn của từng cơ quan, đơn vị.
100% đảng bộ, chi bộ trực thuộc lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể hóa nội dung của Nghị quyết số 45-NQ/TW và Chương trình hành động của Đảng bộ Bộ Tài chính vào chương trình công tác năm của đơn vị; đưa nội dung kiểm tra, giám sát việc tổ chức, học tập, triển khai thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW vào chương trình kiểm tra, giám sát hằng năm.
Giai đoạn khó khăn nhất của đợt khủng hoảng thanh khoản đã qua, thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) đã chuyển sang một giai đoạn phát triển mới được đánh dấu bởi các quy định chặt chẽ hơn và tâm lý thị trường dần được cải thiện.
Tâm lý thị trường tích cực hơn
Kể từ sau giai đoạn khủng hoảng về thanh khoản và chậm trả gốc/lãi tăng mạnh từ tháng 9/2022 – 6/2023, tâm lý thị trường đã tích cực hơn, chủ yếu nhờ nỗ lực của cơ quan quản lý nhằm tạo điều kiện pháp lý hỗ trợ doanh nghiệp phát hành.
Từ tháng 3/2023, hơn 200 trái phiếu đã thực hiện kéo dài ngày đáo hạn, phần lớn gia hạn thêm khoảng 22 tháng, sau khi đạt được thỏa thuận với nhà đầu tư theo Nghị định số 08/2023/NĐ-CP của Chính phủ. Nhiều tổ chức phát hành có mức vay nợ cao và sức khỏe tài chính yếu, gồm cả những doanh nghiệp mới thành lập mà không có hoạt động kinh doanh cốt lõi, dòng tiền kinh doanh hạn chế, và liên quan đến các dự án bất động sản, đã tránh được tình trạng chậm trả nhờ Nghị định này.
Hình 1: Trái phiếu chậm trả phát sinh mới đã giảm; đợt tái cấu trúc thành công gia tăng
Theo Công ty cổ phần xếp hạng tín nhiệm Đầu tư Việt Nam (VIS Rating), hoạt động đàm phán gia hạn nợ đã diễn ra tích cực hơn sau Nghị định số 08/2023/NĐ-CP và giúp một số tổ chức phát hành tránh được nguy cơ chậm trả. Khoảng 80 trái phiếu đã gia hạn khi chỉ còn 1 tháng trước ngày đáo hạn, phần lớn là trái phiếu của các doanh nghiệp mới thành lập mà không có hoạt động kinh doanh cốt lõi, dòng tiền kinh doanh hạn chế và liên quan đến các dự án bất động sản. Một dấu hiệu tích cực khác là nhiều tổ chức phát hành chậm trả đã hoàn trả một phần gốc và lãi cho trái chủ.
Với tỷ lệ chậm trả trái phiếu giảm và tỷ lệ thu hồi chậm trả đang tăng lên, các tổ chức phát hành và nhà đầu tư đã lạc quan hơn và đang chủ động thích ứng với yêu cầu phát hành chặt chẽ hơn. Trong 8 tháng đầu năm 2024, lượng phát hành mới đã tăng gấp đôi lên 298 nghìn tỷ đồng so với cùng kỳ năm 2023, dẫn đầu bởi khối ngân hàng và bất động sản. Hoạt động giao dịch trên thị trường thứ cấp cũng sôi động hơn kể từ khi sàn giao dịch trái phiếu riêng lẻ được triển khai vào tháng 7/2023. Mức chênh lệch lợi suất giao dịch của các trái phiếu của tổ chức phát hành có chất lượng tín dụng “Trung bình” so với trái phiếu chính phủ trong năm 2024 đã giảm hơn 200 điểm cơ bản so với giai đoạn từ quý IV/2022 đến quý II/2023.
Các điểm nghẽn chính cần được giải quyết
Theo quan điểm của VIS Rating, hành vi của thị trường đã có sự căn chỉnh theo hướng tích cực hơn. Tuy nhiên, các giao dịch trái phiếu gần đây vẫn cho thấy thị trường còn thiếu nhận thức đầy đủ về rủi ro và cơ cấu nhà đầu tư chưa đủ đa dạng để duy trì hoạt động TPDN qua giai đoạn biến động.
Hầu hết các trái phiếu được phát hành và giao dịch trên thị trường thứ cấp đều là các trái phiếu phát hành riêng lẻ, hoặc do các doanh nghiệp mới thành lập và không có hoạt động kinh doanh cốt lõi phát hành, và do đó có rất ít thông tin công khai để nhà đầu tư có thể theo dõi và phân tích rủi ro.
Gần 50% các trường hợp chậm trả trái phiếu trong giai đoạn 2022 – 2023 đến từ các doanh nghiệp mới thành lập, tình hình tài chính yếu, nhưng vẫn phát hành được với mức lãi suất hấp dẫn trong giai đoạn trước. Hiện nay, nhiều trái phiếu từ nhóm các doanh nghiệp này vẫn đang được giao dịch trên thị trường thứ cấp với mức lợi suất không chênh lệch nhiều so với các trái phiếu của các công ty có tình hình tài chính lành mạnh hơn.
Theo VIS Rating, so với các thị trường TPDN phát triển hơn trong khu vực, Việt Nam đang thiếu sự hiện diện các nhà đầu tư tổ chức có thời gian đầu tư nắm giữ dài hạn và khả năng chịu đựng rủi ro cao để vượt qua các biến động ngắn hạn.
Trong dự thảo thay đổi của Luật Chứng khoán, dự kiến có thể được ban hành vào quý IV/2024, cơ quan quản lý có dự định đưa ra các biện pháp bảo vệ bổ sung nhằm giảm bớt trường hợp các nhà đầu tư chấp nhận rủi ro quá mức, chẳng hạn như giới hạn trái phiếu phát hành riêng lẻ chỉ cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp là tổ chức. Do đó, sự tham gia tích cực hơn của nhà đầu tư tổ chức vào thị trường TPDN là rất quan trọng đối với sự phát triển bền vững của thị trường TPDN.
Theo dữ liệu từ Bộ Tài chính và thống kê từ báo cáo tài chính bán niên, các nhà đầu tư tổ chức như công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí và quỹ đầu tư chỉ nắm giữ 8% tổng số TPDN đang lưu hành tính đến cuối tháng 6/2024. Không giống như các nhà đầu tư cá nhân- những người thường tập trung vào lợi nhuận ngắn hạn, thì các nhà đầu tư tổ chức thường phải cân nhắc rủi ro đầu tư kỹ hơn, có thể đầu tư dài hạn và có khả năng chịu đựng rủi ro tốt hơn đối với các biến động ngắn hạn. Nhà đầu tư tổ chức lớn nhất hiện tại là Quỹ Bảo hiểm Xã hội Việt Nam với quy mô tài sản quản lý đạt 1.200 nghìn tỷ đồng tính đến cuối tháng 12/2023, tuy nhiên Quỹ chưa thực hiện đầu tư vào thị trường TPDN.
Nền kinh tế Việt Nam đang “chạy nước rút” để hoàn thành chỉ tiêu tăng trưởng đã đặt ra từ đầu năm, phấn đấu tăng trưởng kinh tế đạt 6,5%.
Nền kinh tế Việt Nam đã có sự phục hồi rõ nét
Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội tháng 7 và 7 tháng 2024 của Tổng cục Thống kê công bố cho thấy, về sản xuất nông nghiệp, tính đến ngày 15/7/2024, cả nước gieo cấy được 1.206,9 nghìn ha lúa mùa, bằng 99,5% cùng kỳ 2023; đến trung tuần tháng 7, cả nước gieo cấy được 1.902,2 nghìn ha lúa hè thu, bằng 99,6% cùng kỳ 2023.
Về lâm nghiệp, diện tích rừng trồng mới tập trung cả nước tháng 7 ước đạt 13,8 nghìn ha, tăng 6,9% so với cùng kỳ 2023. Tính chung 7 tháng năm 2024, diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt 143,4 nghìn ha, tăng 4,6% so với cùng kỳ 2023. Về thủy sản, sản lượng thủy sản tháng 7 ước đạt 841,1 nghìn tấn, tăng 2,2% so với cùng kỳ 2023. Tính chung 7 tháng năm 2024, sản lượng thủy sản ước đạt 5.225,8 nghìn tấn, tăng 2,6% so với cùng kỳ 2023.
Cũng theo Tổng cục Thống kê, sản xuất công nghiệp duy trì đà tăng trưởng tích cực. Cụ thể, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 7 ước tính tăng 0,7% so với tháng trước và tăng 11,2% so với cùng kỳ 2023. Tính chung 7 tháng năm 2024, IIP ước tính tăng 8,5% so với cùng kỳ 2023. Chỉ số sản xuất công nghiệp 7 tháng qua so với cùng kỳ 2023 tăng ở 60 địa phương và giảm ở 03 địa phương trên cả nước.
Đáng chú ý, trong tháng 7, cả nước có 14,7 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, giảm 6,3% so với tháng 6/2024 và tăng 7,3% so với cùng kỳ 2023. Bên cạnh đó, cả nước còn có hơn 6,8 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 26,2% so với tháng trước và giảm 0,7% so với cùng kỳ năm 2023. Tính chung 7 tháng năm 2024, cả nước có khoảng 139,5 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tăng 5,8% so với cùng kỳ 2023; bình quân một tháng có hơn 19,9 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.
Những con số trên cho thấy, các điểm sáng kinh tế ngày càng nhiều hơn. Nền kinh tế Việt Nam đã có sự phục hồi rõ nét, tháng sau tích cực hơn tháng trước, quý sau tích cực hơn quý trước, đạt được nhiều kết quả quan trọng.
Từ các con số “biết nói” kể trên, mới đây, nhiều tổ chức quốc tế đã đồng loạt nâng mức dự báo tăng trưởng của Việt Nam năm 2024.
Cụ thể, Ngân hàng Thế giới (WB) cho rằng, những cải cách kinh tế từ năm 1986 kết hợp với các xu hướng toàn cầu thuận lợi đã nhanh chóng giúp Việt Nam phát triển từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp. “Việt Nam hiện là một trong những quốc gia năng động nhất Đông Á Thái Bình Dương” – WB đánh giá.
Theo phân tích từ WB, quy mô tổng sản phẩm trong nước (GDP) tính theo giá hiện hành năm 1986 của Việt Nam chỉ đạt 26,34 tỷ đô la Mỹ, đến năm 2023 đã tăng lên tới 429,72 tỷ đô la Mỹ, gấp 16,3 lần. GDP bình quân đầu người tính theo giá hiện hành năm 1986 đạt 430,2 đô la Mỹ, đến năm 2023 đã tăng lên 4.346,8 đô la Mỹ, gấp 10,34 lần.
Thu nhập quốc gia tính theo giá hiện hành năm 1989 đạt 14,15 tỷ đô la Mỹ, đến năm 2023 tăng lên 412,94 tỷ đô la Mỹ, gấp 29,2 lần. GNI bình quân đầu người tính theo giá hiện hành năm 1989 đạt 220 đô la Mỹ, đến năm 2023 đã tăng lên 4.180 đô la Mỹ, gấp 19 lần.
Nhờ có nền tảng vững chắc, WB đánh giá nền kinh tế Việt Nam đã thể hiện sức chống chịu đáng kể trong những giai đoạn khủng hoảng. Tăng trưởng kinh tế dự kiến sẽ đạt 5,5% vào năm 2024, tăng từ mức 5% vào năm 2023,
“Việt Nam sẽ có khả năng đạt được tăng trưởng kinh tế cao hơn, không chỉ do nguồn lực trong nước được sử dụng đảm bảo năng suất cao hơn, mà còn tận dụng được đòn bẩy nguồn vốn hết sức cần thiết trên thị trường quốc tế để đạt được mục tiêu trở thành nền kinh tế thu nhập cao”. – Ông Ketut Ariadi Kusuma, chuyên gia cao cấp về khu vực tài chính của WB nhận định.
Cũng đưa ra dự báo về kinh tế Việt Nam, Ngân hàng quốc tế UOB cho rằng, kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng tích cực với tăng trưởng dự báo đạt hơn 9%, tốc độ tăng trưởng GDP dự báo khoảng hơn 6%.
Theo đánh giá của UOB, tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt 6,4% so với cùng kỳ năm trước trong nửa đầu năm nay, chủ yếu nhờ vào các ngành sản xuất, công nghiệp và dịch vụ. “Triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2024 vẫn tích cực, với tốc độ tăng trưởng GDP dự báo là 6% và có tiềm năng vượt hơn con số này. Sự lạc quan này dựa trên hiệu suất mạnh mẽ của các ngành như sản xuất, điện tử, đồ nội thất và ô tô”. – Ông Suan Teck Kin, Giám đốc Khối Nghiên cứu thị trường và Kinh tế toàn cầu, UOB dự báo.
Điểm mạnh của Việt Nam theo UBO nằm ở khả năng cạnh tranh trong các ngành điện tử và điện, nhưng có một rủi ro do quá phụ thuộc vào ngành này. Để giảm thiểu điều này, Việt Nam nên đa dạng hóa xuất khẩu bằng cách mở rộng các ngành truyền thống như dệt may, giày dép, sản phẩm gỗ, thủy sản và nông nghiệp.
Bên cạnh đó, do tỷ giá hiện đã giảm nên Ngân hàng Nhà nước đã giảm bớt áp lực về điều hành tỷ giá và có thể giữ nguyên lãi suất ở mức cao để giải quyết các lo ngại về lạm phát. VND được dự báo sẽ tiếp tục tăng giá. VND đã bắt đầu tăng giá trở lại mức mạnh hơn là 25.000 so với USD. Trong tương lai, VND dự kiến sẽ tăng giá dần dần lên mức 24.100 so với USD vào quý II/2025.
Liên quan đến tình hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2024, ngày 2/9 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã ký Công điện số 85/CĐ-TTg về điều hành dự toán ngân sách Nhà nước (NSNN) gửi bộ trưởng, thủ trưởng các cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Theo Công điện, trong 8 tháng đầu năm 2024 tình hình kinh tế – xã hội tiếp tục được duy trì ổn định và thể hiện rõ sự phục hồi tích cực, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm, lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng kinh tế được thúc đẩy, giữ vững quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm an sinh xã hội và đời sống nhân dân.
Thu ngân sách nhà nước 8 tháng đầu năm ước đạt 78,5% dự toán trong điều kiện đã thực hiện các chính sách miễn, giảm, gia hạn nhiều loại thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất và các khoản thu ngân sách khác; chi ngân sách nhà nước được điều hành chặt chẽ, tiết kiệm; cân đối ngân sách nhà nước được bảo đảm, bội chi ngân sách nhà nước, nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia trong phạm vi Quốc hội cho phép.
Để giữ vững đà tăng trưởng, Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị tiếp tục tiếp tục thực hiện có hiệu quả các giải pháp, nhiệm vụ trọng tâm để thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế – xã hội.
Đồng thời tập trung thực hiện các giải pháp chính sách tài khóa, tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác đã ban hành để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân, kiểm soát lạm phát, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì đà tăng trưởng và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP cả năm 2024 đạt khoảng 7%, vượt mục tiêu đã đề ra, tạo tiền đề, khí thế cho năm 2025 và giai đoạn 2026-2030.
(ĐTCK) Áp lực bên ngoài (tỷ giá) giảm dần khi Ngân hàng Trung ương Mỹ (Fed) bắt đầu chu kỳ hạ lãi suất, theo giới chuyên gia, đang “ủng hộ” cho việc duy trì định hướng nới lỏng tiền tệ để hỗ trợ nền kinh tế.
Kỳ vọng tiếp tục nới lỏng
Nhận định về chính sách tiền tệ trong nước, ông Phạm Hồng Hải, Tổng giám đốc OCB cho rằng, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện rất tốt vai trò điều hành chính sách tiền tệ một cách chủ động, linh hoạt và hiệu quả. Sự phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa đã hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, đồng thời kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.
Ông Hải kỳ vọng cơ quan quản lý tiếp tục có những biện pháp hỗ trợ, đặc biệt là việc giảm lãi suất OMO và lãi suất điều hành.
Kỳ vọng Ngân hàng Nhà nước sẽ duy trì lãi suất chính sách chủ chốt trong thời gian còn lại của năm 2024, song ông Suan Teck Kin, Giám đốc Khối Nghiên cứu thị trường và Kinh tế toàn cầu, Ngân hàng UOB (Singapore) cũng lưu ý đến rủi ro lạm phát.
Từ đầu năm đến hết tháng 8, CPI toàn phần tăng 4% so với cùng kỳ năm trước, chỉ thấp hơn một chút so với mục tiêu 4,5% và theo chuyên gia UOB, lạm phát có thể sẽ gia tăng trong các tháng cuối năm do gián đoạn về sản lượng nông nghiệp (bão Yagi và mưa lũ gây thiệt hại nặng nề cho các tỉnh miền Bắc), trong khi các mặt hàng thực phẩm chiếm tới 34% trọng số rổ tính CPI.
“Ngân hàng Nhà nước có thể sẽ áp dụng cách tiếp cận hỗ trợ theo trọng tâm hơn để hỗ trợ các cá nhân và doanh nghiệp trong khu vực bị ảnh hưởng, thay vì triển khai một công cụ hỗ trợ rộng rãi trên toàn quốc như cắt giảm lãi suất. Do đó, chúng tôi dự báo Ngân hàng Nhà nước sẽ duy trì lãi suất tái cấp vốn ở mức hiện tại là 4,5%/năm, trong khi tập trung vào việc thúc đẩy tăng trưởng tín dụng và các biện pháp hỗ trợ khác”, ông Suan Teck Kin nói.
Tương tự, ông Ngô Đăng Khoa, Giám đốc Khối Ngoại hối, thị trường vốn và dịch vụ chứng khoán, Ngân hàng HSBC Việt Nam nhận định, chính sách tiền tệ trong nước tiếp tục duy trì theo hướng hỗ trợ, với việc Ngân hàng Nhà nước giữ nguyên lãi suất chính sách ở mức 4,5%/năm.
Liên quan đến việc Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) công bố cắt giảm lãi suất 50 điểm cơ bản tại kỳ họp tháng 9 vừa qua, ông Suan Teck Kin cho rằng, có thể làm tăng khả năng (và áp lực) nới lỏng chính sách tiền tệ đối với Ngân hàng Nhà nước. Cùng chung diễn biến với các đồng tiền trong khu vực, tỷ giá VND (so với USD) đã ghi nhận mức tăng theo quý lớn nhất kể từ năm 1993, với 3,2%, đạt mức 24.630 VND/USD. Áp lực bên ngoài (từ sức mạnh của USD) giảm dần khi Fed bắt đầu chu kỳ hạ lãi suất, trong khi các yếu tố nội tại của kinh tế Việt Nam cho thấy sự ổn định hơn nữa là hai lý do chính giúp giá trị VND phục hồi.
“Bất chấp ảnh hưởng của siêu bão Yagi, đà tăng trưởng mạnh mẽ của kinh tế Việt Nam dự báo được thúc đẩy bởi cả hoạt động sản xuất, thương mại và nhiều khả năng sẽ kéo dài sang năm 2025. Kỳ vọng về chính sách tiền tệ ổn định từ Ngân hàng Nhà nước với trọng tâm là thúc đẩy tăng trưởng tín dụng cũng hỗ trợ cho VND”, chuyên gia UOB nhấn mạnh
Trong diễn biến có liên quan, ông Khoa cảnh báo, việc Fed mới bắt đầu bước vào chu kỳ giảm lãi suất với rất nhiều kịch bản phía trước, những khác biệt về chính sách có khả năng vẫn còn duy trì, cùng với xu hướng tăng trưởng tín dụng từ nay tới cuối năm sẽ tiếp tục là yếu tố chính ảnh hưởng tới thanh khoản và lãi suất VND.
Phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa
Chia sẻ về định hướng điều hành chính sách tiền tệ trong những tháng cuối năm, Phó Thống đốc Phạm Quang Dũng cho biết, Ngân hàng Nhà nước sẽ thực hiện các giải pháp điều hành tín dụng chủ động, linh hoạt, phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát, tạo điều kiện cho doanh nghiệp, người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng. Cơ quan quản lý sẽ tiếp tục giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng hàng năm cho tổ chức tín dụng đảm bảo công khai, minh bạch, phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô và tình hình hoạt động của từng tổ chức tín dụng, đồng thời nghiên cứu lộ trình dỡ bỏ dần việc áp dụng biện pháp này theo chủ trương của Quốc hội, Chính phủ.
Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước cũng chỉ đạo các tổ chức tín dụng tăng cường kiểm soát chất lượng tín dụng, tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, lành mạnh; tiếp tục duy trì ổn định mặt bằng lãi suất tiền gửi và phấn đấu giảm lãi suất cho vay; tháo gỡ và thúc đẩy tín dụng phục vụ nhu cầu sản xuất – kinh doanh và phục vụ đời sống, tiêu dùng.
Cũng theo Phó Thống đốc Phạm Quang Dũng, để thúc đẩy sự phục hồi của tổng cầu, tăng khả năng hấp thụ tín dụng, bên cạnh các giải pháp từ phía ngành ngân hàng, cần có chính sách tổng thể từ phía các bộ, ngành, địa phương. Cụ thể, cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; củng cố niềm tin của thị trường vào sự phục hồi, tăng trưởng kinh tế, qua đó khôi phục kỳ vọng mở rộng đầu tư của doanh nghiệp, thúc đẩy tiêu dùng của người dân. Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý để hướng dẫn đồng bộ, rõ ràng việc thi hành các luật vừa được sửa đổi, bổ sung; rà soát để tiếp tục tháo gỡ các rào cản về thủ tục pháp lý đối với các dự án, đối với việc xử lý tài sản đảm bảo thi hành án; không hình sự hóa các quan hệ kinh tế dân sự. Thúc đẩy các động lực tăng trưởng truyền thống đầu tư, tiêu dùng, xuất khẩu; đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công, tăng cường thu hút đầu tư xã hội, nguồn vốn FDI chất lượng cao; đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại; tiếp tục triển khai các giải pháp kích cầu tiêu dùng trong nước. Tiếp tục triển khai có hiệu quả các chính sách miễn, giảm, gia hạn thời hạn nộp thuế, phí, lệ phí, tiền sử dụng đất; mở rộng chính sách tài khóa hợp lý, có trọng tâm trọng điểm. Đẩy nhanh tiến độ tháo gỡ khó khăn và phát triển bền vững các thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, thị trường bất động sản”.
Khẳng định việc phối hợp các chính sách đóng vai trò quan trọng với phục hồi kinh tế trong bối cảnh giá cả tăng nhẹ và cầu còn yếu, ông Shantanu Chakraborty, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam cho rằng, chính sách tiền tệ nới lỏng phải được phối hợp chặt chẽ với việc thực hiện chính sách tài khóa nhằm thúc đẩy hiệu quả hoạt động kinh tế. Chính sách tiền tệ sẽ theo đuổi mục tiêu kép là ổn định giá cả và tăng trưởng, cho dù không gian chính sách bị hạn chế.
Cũng theo ông Shantanu Chakraborty, chính sách tiền tệ cần tiếp tục tập trung vào hai mục tiêu ổn định giá cả và hỗ trợ tăng trưởng, mặc dù không gian chính sách hạn chế. Bất kỳ biện pháp nới lỏng chính sách tiền tệ bổ sung nào cũng nên được phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa mở rộng, cùng với việc đẩy nhanh cải cách thể chế để hỗ trợ nền kinh tế.
“Mặc dù Ngân hàng Nhà nước tiếp tục theo đuổi chính sách tiền tệ hỗ trợ, song năng lực thực hiện chính sách này đã bị hạn chế đáng kể. Do vậy, cần thiết phải đẩy mạnh các biện pháp hỗ trợ tài khóa, tăng cường giải ngân đầu tư công và cải cách quản lý nhà nước hơn nữa để giảm bớt gánh nặng lên chính sách tiền tệ trong việc thúc đẩy nền kinh tế”, lãnh đạo ADB nhấn mạnh.