Giá thuê đất thương mại dịch vụ của TP HCM dự kiến tăng trung bình từ 18-53%, theo dự thảo mới của Sở Tài Chính.
Sở Tài chính TP HCM đang lấy ý kiến về đề xuất quy định mức tỷ lệ phần trăm tính đơn giá thuê đất; đất xây dựng công trình ngầm (không phải là phần ngầm của công trình trên mặt đất) và đất có mặt nước. Đây sẽ là mức tỷ lệ được áp dụng làm căn cứ tính tiền thuê đất trên địa bàn thành phố.
Theo đề xuất, tỷ lệ phần trăm tính đơn giá thuê đất hàng năm với nhóm thương mại, dịch vụ khu vực 1 (quận 1, 3, 4, 5, 10, Phú Nhuận) sẽ là 1,5%, khu vực 2 (TP Thủ Đức, các quận 6, 7, 8, 11, 12, Bình Thạnh, Bình Tân, Tân Bình, Tân Phú, Gò Vấp) là 1% và khu vực 3 (huyện Hóc Môn, Củ Chi, Bình Chánh, Cần Giờ, Nhà Bè) 0,75%.
Với đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp (không phải là đất thương mại dịch vụ mục đích kinh doanh) cũng sẽ được xác định theo từng khu vực gồm: khu vực 1 áp dụng tỷ lệ 1%; khu vực 2 tỷ lệ là 0,75%; khu vực 3 là 0,5%.
Riêng đất nông nghiệp, tỷ lệ tương ứng 0,25%, đất trong Khu công nghệ cao, Khu công viên phần mềm Quang Trung là 0,5%.
Công thức tính giá thuê đất sẽ là: Giá thuê = tỷ lệ phần trăm tính đơn giá (x) giá đất theo bảng giá điều chỉnh.
Hiện nay, theo Quyết định 50/2014, giá thuê đất hàng năm (không thông qua hình thức đấu giá) được chia làm 4 khu vực với tỷ lệ % tính tiền thuê đất là từ 1,6-2% với đất kinh doanh dịch vụ, thương mại; tài chính; nhà hàng; khách sạn; nhà ở cho thuê; văn phòng… ; khoảng 1,1-1,5% với đất sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; kho xưởng; công trình công cộng, thương mại dịch vụ… Và 1% với đất tại các khu công nghiệp, khu chế xuất; bến cảng, sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản…
Như vậy, dự thảo của Sở Tài Chính đã giảm mức tỷ lệ % tính tiền thuê đất xuống khá sâu, tuy nhiên do bảng giá đất điều chỉnh tăng mạnh (5-38 lần, chưa nhân hệ số K) so với giá cũ nên giá thuê đất trả tiền hàng năm vẫn tăng cao.
Hiệp hội bất động sản TP HCM (HoREA) dẫn chứng, theo cách tính trước đây của Quyết định 50, đơn giá thuê đất hàng năm Khu chế xuất Linh Trung (đường số 1, phường Bình Chiểu, TP Thủ Đức) hiện có tỷ lệ % đơn giá thuê là 1,3%, giá đất theo Quyết định 02 là 4,2 triệu đồng mỗi m2, hệ số điều chỉnh là 3,3 thì đơn giá thuê đất hàng năm sẽ là 4,2 x 3,3 x 1,3% = 180.000 đồng mỗi m2.
Tuy nhiên, nếu tính theo dự thảo mới, dù tỷ lệ % giảm xuống là 0,75% nhưng giá đất đường số 1 theo Quyết định 79 hiện lên đến 39,7 triệu đồng mỗi m2. Vì vậy giá thuê đất hàng năm sẽ là 39,7 x 0,75% = 298.000 đồng mỗi m2, tăng 65%so với trước đây.
Sở Tài Chính cho biết nếu theo tỷ lệ phần trăm của dự thảo, giá thuê đất phi nông nghiệp trên toàn TP HCM dự kiến tăng từ 35-50%. Tăng mạnh nhất rơi vào khu vực 2 và 3, lần lượt 54% và 50%. Còn với giá thuê đất thương mại, dịch vụ, mức tăng trung bình theo từng khu vực sẽ lần lượt là 18%, 25% và 53%. Nếu chỉ tính riêng khu vực trung tâm và nội thành, mức tăng trung bình không quá 25% so với đơn giá tính theo quy định cũ.
Sở này cho rằng sự thay đổi trên phản ánh đúng giá thuê đất trên thị trường. Đây là mức tăng tất yếu khi thành phố điều chỉnh bảng giá đất theo hướng tiệm cận với giá thị trường và trong ngưỡng chịu được của nền kinh tế. Còn với khu vực ngoại thành, trước đây có giá đất quy định tại bảng giá rất thấp, sau khi điều chỉnh bảng giá đất, khu vực này có mức tăng chênh lệch khá lớn với khu vực nội thành.
Dẫu vậy, theo Hiệp hội bất động sản TP HCM, bảng giá đất điều chỉnh đang làm giá đất tăng cao, nếu tính theo mức tỷ lệ % được Sở Tài Chính đề xuất, giá thuê đất tại nhiều khu vực sẽ rất cao, gây khó khăn cho doanh nghiệp.
Hiệp hội này đề xuất nên giảm tỷ lệ % tính đơn giá thuê đất ở mỗi nhóm xuống 0,25%. Như vậy nhóm đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp sẽ có tỷ lệ % khu vực 1 là 0,75%, khu vực 2 là 0,5%, khu vực 3 tương ứng 0,25%. Đối với đất thương mại, dịch vụ, mức tỷ lệ % sẽ là 1,25%, 0,75% và 0,5% lần lượt cho ba khu vực.
Sau một tháng vận hành thương mại, Tổ hợp Hoá dầu Long Sơn (LSP) đã tạm ngưng hoạt động từ giữa tháng 10 để kiểm soát chi phí.
Ngày 31/10, khi thông báo kết quả hoạt động quý III năm nay, Chủ tịch và CEO của SCG Thammasak Sethaudom cho biết tổ hợp LSP đã “tạm ngưng” hoạt động để kiểm soát chi phí hoạt động cùng với kế hoạch tái khởi động khi các điều kiện phù hợp hơn. SCG – Công ty mẹ của SCG Chemicals (SCGC) là chủ đầu tư tổ hợp hóa dầu Long Sơn.
Ông Thammasak Sethaudom cho biết quyết định này nằm trong chương trình kiểm soát giá nguyên liệu và nhu cầu đầu ra của sản phẩm trong tình hình chung kinh tế thế giới để tối đa khả năng cạnh tranh, dành cho nhà máy LSP (Việt Nam) và 2 nhà máy Map Ta Phut Olefins và Rayong Olefins ở tỉnh Rayong (Thái Lan).
Trước đó, tổ hợp này vừa được vận hành thương mại ngày 30/9. Đây là tổ hợp hóa dầu tích hợp đầu tiên tại Việt Nam, có vốn đầu tư hơn 5 tỷ USD, là dự án FDI lớn nhất tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và hàng đầu cả nước.
Đồng thời, lãnh đạo SCG cũng cho biết họ sẽ đầu tư thêm 700 triệu USD vào tổ hợp hóa dầu này để mở rộng dự án có thể sử dụng ethane làm nguyên liệu. Việc mở rộng này sẽ được thực hiện bằng nguồn vốn nội bộ của SCG.
Việc này đang chờ ý kiến của các cơ quan Việt Nam và dự kiến hoàn thành vào cuối năm 2027. SCG cho biết ethane sẽ được nhập khẩu từ Mỹ làm nguyên liệu cho tổ hợp hóa dầu Long Sơn và quá trình này có lợi ở việc giảm giá nguyên liệu đầu vào, khả năng linh hoạt trong hoạt động, và giảm lượng khí thải carbon.
SCG khẳng định quy trình sản xuất olefin của tổ hợp hóa dầu Long Sơn vốn đã có phương án linh hoạt sử dụng các loại khí làm nguyên liệu. Phần lớn của khoản đầu tư 700 triệu USD sẽ dành cho việc xử lý và lưu trữ ethane làm nguyên liệu, với yêu cầu chính là cần được bảo quản ở âm (-) 90 độ C. Khi hoàn thiện, ethane sẽ chiếm 2/3 nguyên liệu của tổ hợp hóa dầu Long Sơn và phần còn lại là propane và naphtha.
Tổ hợp hóa dầu Long Sơn bao gồm nhà máy thượng nguồn olefin; 3 nhà máy hạ nguồn polyolefin (HDPE, LLDPE và PP) và các hạ tầng liên quan như cụm cảng.
LSP có tổng công suất thiết kế 1,4 triệu tấn hạt nhựa olefin một năm, sản xuất nhiều sản phẩm hóa dầu đa dạng, bao gồm các chất liệu nhựa thiết yếu như polyethylene mật độ cao (HDPE), polyethylene mật độ thấp tuyến tính (LLDPE) và polypropylene (PP). Các sản phẩm của tổ hợp này còn là nguyên liệu cơ bản cho nhiều ngành công nghiệp khác như: đóng gói bao bì, sản xuất nông nghiệp, thiết bị điện, phụ tùng ôtô…
Việt Nam đang nhập khẩu khoảng 2,85 triệu tấn nguyên liệu polyolefin (hạt nhựa) mỗi năm. Khi nhà máy của LSP đi vào vận hành thương mại, sản lượng 1,4 triệu tấn một năm sẽ giúp giảm nhập khẩu mặt hàng này, củng cố khả năng tự cung trong nước và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
LSP cũng cam kết chú trọng phát triển bền vững, an toàn và thân thiện với môi trường. Khi hoạt động ở công suất tối đa, mỗi năm tổ hợp LSP dự kiến đạt doanh thu 1,5 tỷ USD, đóng góp khoảng 150 triệu USD cho ngân sách Nhà nước.
Dự án này đã trải qua nhiều biến động khi được cấp giấy chứng nhận đầu tư từ tháng 7/2008, thay đổi cổ đông dẫn tới SCG thành nhà đầu tư duy nhất từ tháng 6/2018 cùng với tăng vốn đầu tư lên hơn 5 tỷ USD
(TBTCO) – 100% các đảng bộ, chi bộ trực thuộc Đảng ủy Bộ Tài chính xây dựng chương trình hoặc kế hoạch triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 45-NQ/TW phù hợp với đặc điểm, tình hình, gắn với nhiệm vụ, chuyên môn của từng cơ quan, đơn vị.
Ngày 3/10/2024, Đảng ủy Bộ Tài chính ban hành Chương trình hành động số 15 -Ctr/ĐUBTC thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa 13 về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới của Đảng bộ Bộ Tài chính.
Hội nghị Ban chấp hành Đảng bộ Bộ Tài chính thường kỳ. Ảnh: Đức Minh
Đảng uỷ Bộ Tài chính đặt mục tiêu tổ chức nghiên cứu, quán triệt, tuyên truyền sâu rộng các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu của nghị quyết số 45-NQ/TW.
Đồng thời, nâng cao nhận thức của các cấp trong toàn Đảng bộ, nhất là người đứng đầu về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của việc xây dựng đội ngũ trí thức trong giai đoạn hiện nay; xác định xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức là trách nhiệm của toàn xã hội, của cả hệ thống chính trị, của Đảng và Nhà nước, trong đó có trách nhiệm của các cấp ủy đảng trong Đảng bộ Bộ Tài chính.
Tại kế hoạch hành động này, Đảng uỷ Bộ Tài chính đề nghị các đơn vị xác định chỉ tiêu, nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp chủ yếu để triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết, phù hợp với điều kiện thực tế của Đảng bộ Bộ Tài chính.
Ngoài ra, cụ thể hóa quan điểm, mục tiêu, các nhiệm vụ và giải pháp trong Nghị quyết số 45-NQ/TW phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, đặc thù của Đảng bộ Bộ Tài chính: Thực hiện phân công nhiệm vụ rõ ràng, có lộ trình thời gian, biện pháp phù hợp với đặc điểm, tình hình thực tế trong Đảng bộ Bộ Tài chính.
Thường xuyên đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết, kịp thời bổ sung, cập nhật những chủ trương, chính sách, nhiệm vụ và giải pháp mới vào Chương trình hành động trong quá trình triển khai thực hiện để đáp ứng yêu cầu thực tiễn đề ra.
Đảng uỷ Bộ Tài chính đặt ra chỉ tiêu cụ thể: 100% đảng viên Đảng bộ Bộ Tài chính được phổ biến, học tập, nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết số 45-NQ/TW.
100% các đảng bộ, chi bộ trực thuộc xây dựng chương trình hoặc kế hoạch triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 45-NQ/TW phù hợp với đặc điểm, tình hình, gắn với nhiệm vụ, chuyên môn của từng cơ quan, đơn vị.
100% đảng bộ, chi bộ trực thuộc lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể hóa nội dung của Nghị quyết số 45-NQ/TW và Chương trình hành động của Đảng bộ Bộ Tài chính vào chương trình công tác năm của đơn vị; đưa nội dung kiểm tra, giám sát việc tổ chức, học tập, triển khai thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW vào chương trình kiểm tra, giám sát hằng năm.
Giai đoạn khó khăn nhất của đợt khủng hoảng thanh khoản đã qua, thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) đã chuyển sang một giai đoạn phát triển mới được đánh dấu bởi các quy định chặt chẽ hơn và tâm lý thị trường dần được cải thiện.
Tâm lý thị trường tích cực hơn
Kể từ sau giai đoạn khủng hoảng về thanh khoản và chậm trả gốc/lãi tăng mạnh từ tháng 9/2022 – 6/2023, tâm lý thị trường đã tích cực hơn, chủ yếu nhờ nỗ lực của cơ quan quản lý nhằm tạo điều kiện pháp lý hỗ trợ doanh nghiệp phát hành.
Từ tháng 3/2023, hơn 200 trái phiếu đã thực hiện kéo dài ngày đáo hạn, phần lớn gia hạn thêm khoảng 22 tháng, sau khi đạt được thỏa thuận với nhà đầu tư theo Nghị định số 08/2023/NĐ-CP của Chính phủ. Nhiều tổ chức phát hành có mức vay nợ cao và sức khỏe tài chính yếu, gồm cả những doanh nghiệp mới thành lập mà không có hoạt động kinh doanh cốt lõi, dòng tiền kinh doanh hạn chế, và liên quan đến các dự án bất động sản, đã tránh được tình trạng chậm trả nhờ Nghị định này.
Hình 1: Trái phiếu chậm trả phát sinh mới đã giảm; đợt tái cấu trúc thành công gia tăng
Theo Công ty cổ phần xếp hạng tín nhiệm Đầu tư Việt Nam (VIS Rating), hoạt động đàm phán gia hạn nợ đã diễn ra tích cực hơn sau Nghị định số 08/2023/NĐ-CP và giúp một số tổ chức phát hành tránh được nguy cơ chậm trả. Khoảng 80 trái phiếu đã gia hạn khi chỉ còn 1 tháng trước ngày đáo hạn, phần lớn là trái phiếu của các doanh nghiệp mới thành lập mà không có hoạt động kinh doanh cốt lõi, dòng tiền kinh doanh hạn chế và liên quan đến các dự án bất động sản. Một dấu hiệu tích cực khác là nhiều tổ chức phát hành chậm trả đã hoàn trả một phần gốc và lãi cho trái chủ.
Với tỷ lệ chậm trả trái phiếu giảm và tỷ lệ thu hồi chậm trả đang tăng lên, các tổ chức phát hành và nhà đầu tư đã lạc quan hơn và đang chủ động thích ứng với yêu cầu phát hành chặt chẽ hơn. Trong 8 tháng đầu năm 2024, lượng phát hành mới đã tăng gấp đôi lên 298 nghìn tỷ đồng so với cùng kỳ năm 2023, dẫn đầu bởi khối ngân hàng và bất động sản. Hoạt động giao dịch trên thị trường thứ cấp cũng sôi động hơn kể từ khi sàn giao dịch trái phiếu riêng lẻ được triển khai vào tháng 7/2023. Mức chênh lệch lợi suất giao dịch của các trái phiếu của tổ chức phát hành có chất lượng tín dụng “Trung bình” so với trái phiếu chính phủ trong năm 2024 đã giảm hơn 200 điểm cơ bản so với giai đoạn từ quý IV/2022 đến quý II/2023.
Các điểm nghẽn chính cần được giải quyết
Theo quan điểm của VIS Rating, hành vi của thị trường đã có sự căn chỉnh theo hướng tích cực hơn. Tuy nhiên, các giao dịch trái phiếu gần đây vẫn cho thấy thị trường còn thiếu nhận thức đầy đủ về rủi ro và cơ cấu nhà đầu tư chưa đủ đa dạng để duy trì hoạt động TPDN qua giai đoạn biến động.
Hầu hết các trái phiếu được phát hành và giao dịch trên thị trường thứ cấp đều là các trái phiếu phát hành riêng lẻ, hoặc do các doanh nghiệp mới thành lập và không có hoạt động kinh doanh cốt lõi phát hành, và do đó có rất ít thông tin công khai để nhà đầu tư có thể theo dõi và phân tích rủi ro.
Gần 50% các trường hợp chậm trả trái phiếu trong giai đoạn 2022 – 2023 đến từ các doanh nghiệp mới thành lập, tình hình tài chính yếu, nhưng vẫn phát hành được với mức lãi suất hấp dẫn trong giai đoạn trước. Hiện nay, nhiều trái phiếu từ nhóm các doanh nghiệp này vẫn đang được giao dịch trên thị trường thứ cấp với mức lợi suất không chênh lệch nhiều so với các trái phiếu của các công ty có tình hình tài chính lành mạnh hơn.
Theo VIS Rating, so với các thị trường TPDN phát triển hơn trong khu vực, Việt Nam đang thiếu sự hiện diện các nhà đầu tư tổ chức có thời gian đầu tư nắm giữ dài hạn và khả năng chịu đựng rủi ro cao để vượt qua các biến động ngắn hạn.
Trong dự thảo thay đổi của Luật Chứng khoán, dự kiến có thể được ban hành vào quý IV/2024, cơ quan quản lý có dự định đưa ra các biện pháp bảo vệ bổ sung nhằm giảm bớt trường hợp các nhà đầu tư chấp nhận rủi ro quá mức, chẳng hạn như giới hạn trái phiếu phát hành riêng lẻ chỉ cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp là tổ chức. Do đó, sự tham gia tích cực hơn của nhà đầu tư tổ chức vào thị trường TPDN là rất quan trọng đối với sự phát triển bền vững của thị trường TPDN.
Theo dữ liệu từ Bộ Tài chính và thống kê từ báo cáo tài chính bán niên, các nhà đầu tư tổ chức như công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí và quỹ đầu tư chỉ nắm giữ 8% tổng số TPDN đang lưu hành tính đến cuối tháng 6/2024. Không giống như các nhà đầu tư cá nhân- những người thường tập trung vào lợi nhuận ngắn hạn, thì các nhà đầu tư tổ chức thường phải cân nhắc rủi ro đầu tư kỹ hơn, có thể đầu tư dài hạn và có khả năng chịu đựng rủi ro tốt hơn đối với các biến động ngắn hạn. Nhà đầu tư tổ chức lớn nhất hiện tại là Quỹ Bảo hiểm Xã hội Việt Nam với quy mô tài sản quản lý đạt 1.200 nghìn tỷ đồng tính đến cuối tháng 12/2023, tuy nhiên Quỹ chưa thực hiện đầu tư vào thị trường TPDN.
Nền kinh tế Việt Nam đang “chạy nước rút” để hoàn thành chỉ tiêu tăng trưởng đã đặt ra từ đầu năm, phấn đấu tăng trưởng kinh tế đạt 6,5%.
Nền kinh tế Việt Nam đã có sự phục hồi rõ nét
Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội tháng 7 và 7 tháng 2024 của Tổng cục Thống kê công bố cho thấy, về sản xuất nông nghiệp, tính đến ngày 15/7/2024, cả nước gieo cấy được 1.206,9 nghìn ha lúa mùa, bằng 99,5% cùng kỳ 2023; đến trung tuần tháng 7, cả nước gieo cấy được 1.902,2 nghìn ha lúa hè thu, bằng 99,6% cùng kỳ 2023.
Về lâm nghiệp, diện tích rừng trồng mới tập trung cả nước tháng 7 ước đạt 13,8 nghìn ha, tăng 6,9% so với cùng kỳ 2023. Tính chung 7 tháng năm 2024, diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt 143,4 nghìn ha, tăng 4,6% so với cùng kỳ 2023. Về thủy sản, sản lượng thủy sản tháng 7 ước đạt 841,1 nghìn tấn, tăng 2,2% so với cùng kỳ 2023. Tính chung 7 tháng năm 2024, sản lượng thủy sản ước đạt 5.225,8 nghìn tấn, tăng 2,6% so với cùng kỳ 2023.
Cũng theo Tổng cục Thống kê, sản xuất công nghiệp duy trì đà tăng trưởng tích cực. Cụ thể, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 7 ước tính tăng 0,7% so với tháng trước và tăng 11,2% so với cùng kỳ 2023. Tính chung 7 tháng năm 2024, IIP ước tính tăng 8,5% so với cùng kỳ 2023. Chỉ số sản xuất công nghiệp 7 tháng qua so với cùng kỳ 2023 tăng ở 60 địa phương và giảm ở 03 địa phương trên cả nước.
Đáng chú ý, trong tháng 7, cả nước có 14,7 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, giảm 6,3% so với tháng 6/2024 và tăng 7,3% so với cùng kỳ 2023. Bên cạnh đó, cả nước còn có hơn 6,8 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 26,2% so với tháng trước và giảm 0,7% so với cùng kỳ năm 2023. Tính chung 7 tháng năm 2024, cả nước có khoảng 139,5 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tăng 5,8% so với cùng kỳ 2023; bình quân một tháng có hơn 19,9 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.
Những con số trên cho thấy, các điểm sáng kinh tế ngày càng nhiều hơn. Nền kinh tế Việt Nam đã có sự phục hồi rõ nét, tháng sau tích cực hơn tháng trước, quý sau tích cực hơn quý trước, đạt được nhiều kết quả quan trọng.
Từ các con số “biết nói” kể trên, mới đây, nhiều tổ chức quốc tế đã đồng loạt nâng mức dự báo tăng trưởng của Việt Nam năm 2024.
Cụ thể, Ngân hàng Thế giới (WB) cho rằng, những cải cách kinh tế từ năm 1986 kết hợp với các xu hướng toàn cầu thuận lợi đã nhanh chóng giúp Việt Nam phát triển từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp. “Việt Nam hiện là một trong những quốc gia năng động nhất Đông Á Thái Bình Dương” – WB đánh giá.
Theo phân tích từ WB, quy mô tổng sản phẩm trong nước (GDP) tính theo giá hiện hành năm 1986 của Việt Nam chỉ đạt 26,34 tỷ đô la Mỹ, đến năm 2023 đã tăng lên tới 429,72 tỷ đô la Mỹ, gấp 16,3 lần. GDP bình quân đầu người tính theo giá hiện hành năm 1986 đạt 430,2 đô la Mỹ, đến năm 2023 đã tăng lên 4.346,8 đô la Mỹ, gấp 10,34 lần.
Thu nhập quốc gia tính theo giá hiện hành năm 1989 đạt 14,15 tỷ đô la Mỹ, đến năm 2023 tăng lên 412,94 tỷ đô la Mỹ, gấp 29,2 lần. GNI bình quân đầu người tính theo giá hiện hành năm 1989 đạt 220 đô la Mỹ, đến năm 2023 đã tăng lên 4.180 đô la Mỹ, gấp 19 lần.
Nhờ có nền tảng vững chắc, WB đánh giá nền kinh tế Việt Nam đã thể hiện sức chống chịu đáng kể trong những giai đoạn khủng hoảng. Tăng trưởng kinh tế dự kiến sẽ đạt 5,5% vào năm 2024, tăng từ mức 5% vào năm 2023,
“Việt Nam sẽ có khả năng đạt được tăng trưởng kinh tế cao hơn, không chỉ do nguồn lực trong nước được sử dụng đảm bảo năng suất cao hơn, mà còn tận dụng được đòn bẩy nguồn vốn hết sức cần thiết trên thị trường quốc tế để đạt được mục tiêu trở thành nền kinh tế thu nhập cao”. – Ông Ketut Ariadi Kusuma, chuyên gia cao cấp về khu vực tài chính của WB nhận định.
Cũng đưa ra dự báo về kinh tế Việt Nam, Ngân hàng quốc tế UOB cho rằng, kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng tích cực với tăng trưởng dự báo đạt hơn 9%, tốc độ tăng trưởng GDP dự báo khoảng hơn 6%.
Theo đánh giá của UOB, tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt 6,4% so với cùng kỳ năm trước trong nửa đầu năm nay, chủ yếu nhờ vào các ngành sản xuất, công nghiệp và dịch vụ. “Triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2024 vẫn tích cực, với tốc độ tăng trưởng GDP dự báo là 6% và có tiềm năng vượt hơn con số này. Sự lạc quan này dựa trên hiệu suất mạnh mẽ của các ngành như sản xuất, điện tử, đồ nội thất và ô tô”. – Ông Suan Teck Kin, Giám đốc Khối Nghiên cứu thị trường và Kinh tế toàn cầu, UOB dự báo.
Điểm mạnh của Việt Nam theo UBO nằm ở khả năng cạnh tranh trong các ngành điện tử và điện, nhưng có một rủi ro do quá phụ thuộc vào ngành này. Để giảm thiểu điều này, Việt Nam nên đa dạng hóa xuất khẩu bằng cách mở rộng các ngành truyền thống như dệt may, giày dép, sản phẩm gỗ, thủy sản và nông nghiệp.
Bên cạnh đó, do tỷ giá hiện đã giảm nên Ngân hàng Nhà nước đã giảm bớt áp lực về điều hành tỷ giá và có thể giữ nguyên lãi suất ở mức cao để giải quyết các lo ngại về lạm phát. VND được dự báo sẽ tiếp tục tăng giá. VND đã bắt đầu tăng giá trở lại mức mạnh hơn là 25.000 so với USD. Trong tương lai, VND dự kiến sẽ tăng giá dần dần lên mức 24.100 so với USD vào quý II/2025.
Liên quan đến tình hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2024, ngày 2/9 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã ký Công điện số 85/CĐ-TTg về điều hành dự toán ngân sách Nhà nước (NSNN) gửi bộ trưởng, thủ trưởng các cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Theo Công điện, trong 8 tháng đầu năm 2024 tình hình kinh tế – xã hội tiếp tục được duy trì ổn định và thể hiện rõ sự phục hồi tích cực, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm, lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng kinh tế được thúc đẩy, giữ vững quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm an sinh xã hội và đời sống nhân dân.
Thu ngân sách nhà nước 8 tháng đầu năm ước đạt 78,5% dự toán trong điều kiện đã thực hiện các chính sách miễn, giảm, gia hạn nhiều loại thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất và các khoản thu ngân sách khác; chi ngân sách nhà nước được điều hành chặt chẽ, tiết kiệm; cân đối ngân sách nhà nước được bảo đảm, bội chi ngân sách nhà nước, nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia trong phạm vi Quốc hội cho phép.
Để giữ vững đà tăng trưởng, Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị tiếp tục tiếp tục thực hiện có hiệu quả các giải pháp, nhiệm vụ trọng tâm để thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế – xã hội.
Đồng thời tập trung thực hiện các giải pháp chính sách tài khóa, tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác đã ban hành để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân, kiểm soát lạm phát, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì đà tăng trưởng và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP cả năm 2024 đạt khoảng 7%, vượt mục tiêu đã đề ra, tạo tiền đề, khí thế cho năm 2025 và giai đoạn 2026-2030.
(ĐTCK) Áp lực bên ngoài (tỷ giá) giảm dần khi Ngân hàng Trung ương Mỹ (Fed) bắt đầu chu kỳ hạ lãi suất, theo giới chuyên gia, đang “ủng hộ” cho việc duy trì định hướng nới lỏng tiền tệ để hỗ trợ nền kinh tế.
Kỳ vọng tiếp tục nới lỏng
Nhận định về chính sách tiền tệ trong nước, ông Phạm Hồng Hải, Tổng giám đốc OCB cho rằng, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện rất tốt vai trò điều hành chính sách tiền tệ một cách chủ động, linh hoạt và hiệu quả. Sự phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa đã hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, đồng thời kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.
Ông Hải kỳ vọng cơ quan quản lý tiếp tục có những biện pháp hỗ trợ, đặc biệt là việc giảm lãi suất OMO và lãi suất điều hành.
Kỳ vọng Ngân hàng Nhà nước sẽ duy trì lãi suất chính sách chủ chốt trong thời gian còn lại của năm 2024, song ông Suan Teck Kin, Giám đốc Khối Nghiên cứu thị trường và Kinh tế toàn cầu, Ngân hàng UOB (Singapore) cũng lưu ý đến rủi ro lạm phát.
Từ đầu năm đến hết tháng 8, CPI toàn phần tăng 4% so với cùng kỳ năm trước, chỉ thấp hơn một chút so với mục tiêu 4,5% và theo chuyên gia UOB, lạm phát có thể sẽ gia tăng trong các tháng cuối năm do gián đoạn về sản lượng nông nghiệp (bão Yagi và mưa lũ gây thiệt hại nặng nề cho các tỉnh miền Bắc), trong khi các mặt hàng thực phẩm chiếm tới 34% trọng số rổ tính CPI.
“Ngân hàng Nhà nước có thể sẽ áp dụng cách tiếp cận hỗ trợ theo trọng tâm hơn để hỗ trợ các cá nhân và doanh nghiệp trong khu vực bị ảnh hưởng, thay vì triển khai một công cụ hỗ trợ rộng rãi trên toàn quốc như cắt giảm lãi suất. Do đó, chúng tôi dự báo Ngân hàng Nhà nước sẽ duy trì lãi suất tái cấp vốn ở mức hiện tại là 4,5%/năm, trong khi tập trung vào việc thúc đẩy tăng trưởng tín dụng và các biện pháp hỗ trợ khác”, ông Suan Teck Kin nói.
Tương tự, ông Ngô Đăng Khoa, Giám đốc Khối Ngoại hối, thị trường vốn và dịch vụ chứng khoán, Ngân hàng HSBC Việt Nam nhận định, chính sách tiền tệ trong nước tiếp tục duy trì theo hướng hỗ trợ, với việc Ngân hàng Nhà nước giữ nguyên lãi suất chính sách ở mức 4,5%/năm.
Liên quan đến việc Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) công bố cắt giảm lãi suất 50 điểm cơ bản tại kỳ họp tháng 9 vừa qua, ông Suan Teck Kin cho rằng, có thể làm tăng khả năng (và áp lực) nới lỏng chính sách tiền tệ đối với Ngân hàng Nhà nước. Cùng chung diễn biến với các đồng tiền trong khu vực, tỷ giá VND (so với USD) đã ghi nhận mức tăng theo quý lớn nhất kể từ năm 1993, với 3,2%, đạt mức 24.630 VND/USD. Áp lực bên ngoài (từ sức mạnh của USD) giảm dần khi Fed bắt đầu chu kỳ hạ lãi suất, trong khi các yếu tố nội tại của kinh tế Việt Nam cho thấy sự ổn định hơn nữa là hai lý do chính giúp giá trị VND phục hồi.
“Bất chấp ảnh hưởng của siêu bão Yagi, đà tăng trưởng mạnh mẽ của kinh tế Việt Nam dự báo được thúc đẩy bởi cả hoạt động sản xuất, thương mại và nhiều khả năng sẽ kéo dài sang năm 2025. Kỳ vọng về chính sách tiền tệ ổn định từ Ngân hàng Nhà nước với trọng tâm là thúc đẩy tăng trưởng tín dụng cũng hỗ trợ cho VND”, chuyên gia UOB nhấn mạnh
Trong diễn biến có liên quan, ông Khoa cảnh báo, việc Fed mới bắt đầu bước vào chu kỳ giảm lãi suất với rất nhiều kịch bản phía trước, những khác biệt về chính sách có khả năng vẫn còn duy trì, cùng với xu hướng tăng trưởng tín dụng từ nay tới cuối năm sẽ tiếp tục là yếu tố chính ảnh hưởng tới thanh khoản và lãi suất VND.
Phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa
Chia sẻ về định hướng điều hành chính sách tiền tệ trong những tháng cuối năm, Phó Thống đốc Phạm Quang Dũng cho biết, Ngân hàng Nhà nước sẽ thực hiện các giải pháp điều hành tín dụng chủ động, linh hoạt, phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát, tạo điều kiện cho doanh nghiệp, người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng. Cơ quan quản lý sẽ tiếp tục giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng hàng năm cho tổ chức tín dụng đảm bảo công khai, minh bạch, phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô và tình hình hoạt động của từng tổ chức tín dụng, đồng thời nghiên cứu lộ trình dỡ bỏ dần việc áp dụng biện pháp này theo chủ trương của Quốc hội, Chính phủ.
Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước cũng chỉ đạo các tổ chức tín dụng tăng cường kiểm soát chất lượng tín dụng, tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, lành mạnh; tiếp tục duy trì ổn định mặt bằng lãi suất tiền gửi và phấn đấu giảm lãi suất cho vay; tháo gỡ và thúc đẩy tín dụng phục vụ nhu cầu sản xuất – kinh doanh và phục vụ đời sống, tiêu dùng.
Cũng theo Phó Thống đốc Phạm Quang Dũng, để thúc đẩy sự phục hồi của tổng cầu, tăng khả năng hấp thụ tín dụng, bên cạnh các giải pháp từ phía ngành ngân hàng, cần có chính sách tổng thể từ phía các bộ, ngành, địa phương. Cụ thể, cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; củng cố niềm tin của thị trường vào sự phục hồi, tăng trưởng kinh tế, qua đó khôi phục kỳ vọng mở rộng đầu tư của doanh nghiệp, thúc đẩy tiêu dùng của người dân. Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý để hướng dẫn đồng bộ, rõ ràng việc thi hành các luật vừa được sửa đổi, bổ sung; rà soát để tiếp tục tháo gỡ các rào cản về thủ tục pháp lý đối với các dự án, đối với việc xử lý tài sản đảm bảo thi hành án; không hình sự hóa các quan hệ kinh tế dân sự. Thúc đẩy các động lực tăng trưởng truyền thống đầu tư, tiêu dùng, xuất khẩu; đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công, tăng cường thu hút đầu tư xã hội, nguồn vốn FDI chất lượng cao; đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại; tiếp tục triển khai các giải pháp kích cầu tiêu dùng trong nước. Tiếp tục triển khai có hiệu quả các chính sách miễn, giảm, gia hạn thời hạn nộp thuế, phí, lệ phí, tiền sử dụng đất; mở rộng chính sách tài khóa hợp lý, có trọng tâm trọng điểm. Đẩy nhanh tiến độ tháo gỡ khó khăn và phát triển bền vững các thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, thị trường bất động sản”.
Khẳng định việc phối hợp các chính sách đóng vai trò quan trọng với phục hồi kinh tế trong bối cảnh giá cả tăng nhẹ và cầu còn yếu, ông Shantanu Chakraborty, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam cho rằng, chính sách tiền tệ nới lỏng phải được phối hợp chặt chẽ với việc thực hiện chính sách tài khóa nhằm thúc đẩy hiệu quả hoạt động kinh tế. Chính sách tiền tệ sẽ theo đuổi mục tiêu kép là ổn định giá cả và tăng trưởng, cho dù không gian chính sách bị hạn chế.
Cũng theo ông Shantanu Chakraborty, chính sách tiền tệ cần tiếp tục tập trung vào hai mục tiêu ổn định giá cả và hỗ trợ tăng trưởng, mặc dù không gian chính sách hạn chế. Bất kỳ biện pháp nới lỏng chính sách tiền tệ bổ sung nào cũng nên được phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa mở rộng, cùng với việc đẩy nhanh cải cách thể chế để hỗ trợ nền kinh tế.
“Mặc dù Ngân hàng Nhà nước tiếp tục theo đuổi chính sách tiền tệ hỗ trợ, song năng lực thực hiện chính sách này đã bị hạn chế đáng kể. Do vậy, cần thiết phải đẩy mạnh các biện pháp hỗ trợ tài khóa, tăng cường giải ngân đầu tư công và cải cách quản lý nhà nước hơn nữa để giảm bớt gánh nặng lên chính sách tiền tệ trong việc thúc đẩy nền kinh tế”, lãnh đạo ADB nhấn mạnh.
Các chuyên gia khuyến nghị cần thận trọng với nhịp điều chỉnh của thị trường, tuy nhiên vùng hỗ trợ VN-Index 1.250 điểm có thể thu hút dòng tiền bắt đáy, tạo nền tảng cho sự phục hồi trung hạn.
Các chuyên gia khuyến nghị cần thận trọng với nhịp điều chỉnh của thị trường, tuy nhiên vùng hỗ trợ VN-Index 1.250 điểm có thể thu hút dòng tiền bắt đáy, tạo nền tảng cho sự phục hồi trung hạn.
Nhìn chung, diễn biến giao dịch vừa qua phản ánh sự điều chỉnh của thị trường sau giai đoạn tăng điểm. (Ảnh: Vietnam+)
Sau chuỗi phiên tăng điểm trước đó, thị trường chứng khoán đã có sự điều chỉnh đáng kể trong tuần qua. Đóng cửa thị trường, VN-Index chốt ở mức 1.270,6 điểm, giảm 1,6% so với tuần trước. Bên cạnh đó, HNX-Index giảm 1,3% và xuống 232,7 điểm, UPCOM-Index giảm 1,6% xuống 92,4 điểm.
Áp lực phân phối ngắn hạn
Về diễn biến thị trường, ông Phan Tấn Nhật, Trưởng nhóm Phân tích của Công ty Chứng khoán Sài Gòn-Hà Nội (SHS), cho biết phiên giao dịch đầu tuần, thị trường chìm trong sắc đỏ và các phiên sau đó, VN-Index kiểm định không thành công mốc 1.300 điểm. Điều này dẫn đến hai phiên giảm điểm cuối tuần và kết quả là VN-Index đã giảm tổng cộng 20,32 điểm trong cả tuần.
Song, ông Nhật cho hay thanh khoản trong tuần đã tăng so với tuần trước trên cả hai sàn. Cùng với đó, các nhà đầu tư nước ngoài có động thái mua ròng mạnh trên sàn HoSE (446 tỷ đồng). Họ tập trung mua ròng tại các mã TCB, FPT, MWG và PNJ. Tuy nhiên, khối ngoại tiếp tục bán ròng trên sàn HNX (295 tỷ đồng) tại các mã BVS, IDC và SHS.
Phân tích xu hướng thị trường, ông Phan Tấn Nhật cho rằng sau khi kết thúc quý 3, VN-Index vượt lên vùng giá cao nhất năm 2023 quanh 1.250 điểm và bước vào tuần đầu của quý 4, chỉ số tiếp tục tăng điểm để đi lên vùng kháng cự rất mạnh 1.300 điểm. Tuy nhiên các phiên giao dịch gần đây, thị trường gặp phải áp lực cung gia tăng đột biến ở nhiều mã chứng khoán, điều này cho thấy áp lực phân phối ngắn hạn ở vùng kháng cự 1.300 điểm.
Về xu hướng ngắn hạn, ông Nhật cho biết VN-Index đang chuyển sang trạng thái điều chỉnh với mức kháng cự 1.290 điểm. Sang tuần tới, VN-Index ở kịch bản tích cực sẽ tiếp tục tích lũy trong vùng 1.280 điểm-1.300 điểm. Trong trung hạn, VN-Index kỳ vọng sẽ vượt lên vùng giá 1.300 điểm để hướng đến các vùng giá cao hơn 1.320 điểm. Trong đó, 1.300 điểm-1.320 điểm là các vùng kháng cự rất mạnh, đây là đỉnh giá tháng 6-8/2022 và đỉnh giá các tháng đầu năm 2024.
Đánh giá các yếu tố cơ bản trên thị trường, ông Phan Tấn Nhật lưu ý, VN-Index chỉ có thể vượt qua các vùng đỉnh/kháng cự mạnh trên khi có các thông tin hỗ trợ vĩ mô tốt và báo cáo kết quả kinh doanh của các công ty niêm yết có sự tăng trưởng vượt trội.
Tận dụng nhịp điều chỉnh
Cùng quan điểm, Đinh Quang Hinh, Trưởng bộ phận Vĩ mô và Chiến lược thị trường của Công ty Chứng khoán VNDIRECT chia sẻ VN-Index đã đối mặt với áp lực chốt lời gia tăng mạnh mẽ khi tiếp cận vùng kháng cự 1.300 điểm và quay đầu giảm điểm trong tuần vừa qua. Theo ông Hinh, nhịp điều chỉnh của thị trường còn chịu tác động từ việc tỷ giá USD/VND liên ngân hàng quay đầu tăng trở lại lên mức 24.750 và lãi suất liên ngân hàng kỳ hạn qua đêm tăng vượt mốc 4%.
Trong tuần tới, ông Hinh dự báo VN-Index có thể kiểm định vùng hỗ trợ quanh 1.250 điểm (+/- 10 điểm). Theo đó, thị trường kỳ vọng dòng tiền bắt đáy sẽ xuất hiện do VN-Index ít khả năng điều chỉnh sâu hơn ở vùng này. Trong trung hạn, ông Hinh giữ quan điểm tích cực đối với thị trường chứng khoán Việt Nam dựa trên những yếu tố hỗ trợ. Như, dư địa nới lỏng chính sách tiền tệ, tăng cung tiền trong những tháng cuối năm, triển vọng tăng trưởng lợi nhuận tích cực của các doanh nghiệp niêm yết trong quý 3 và quý 4 năm nay, được thúc đẩy bởi đà tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam và mức nền so sánh thấp trong nửa cuối năm 2023.
Theo đó, ông Hinh khuyến nghị nhà đầu tư có thể xem xét giải ngân trở lại, ưu tiên các mã cổ phiếu có triển vọng kinh doanh tích cực và định giá còn hấp dẫn trong những ngành như ngân hàng, bất động sản khu công nghiệp, xuất khẩu (dệt may, thủy sản) và dầu khí.
Nhìn chung diễn biến giao dịch vừa qua phản ánh sự điều chỉnh của thị trường sau giai đoạn tăng điểm. Theo đó, các chuyên gia khuyến nghị nhà đầu tư thận trọng, đánh giá kỹ lưỡng tình hình vĩ mô và kết quả kinh doanh doanh nghiệp. Bên cạnh đó, vùng hỗ trợ quanh 1.250 điểm có thể thu hút dòng tiền bắt đáy, tạo nền tảng cho sự phục hồi trung hạn. Tuy nhiên, các yếu tố bất định vẫn cần được theo dõi sát sao và việc lựa chọn các mã cổ phiếu chất lượng cao, có triển vọng tăng trưởng tốt sẽ là “chìa khóa” giúp nhà đầu tư ra quyết định đầu tư đúng đắn./.
Chủ đầu tư dự án khu biệt thự nghỉ dưỡng Đảo Ngọc tại tỉnh Hòa Bình vừa hút về 1,200 tỷ đồng trái phiếu với lãi suất cao ngất ngưỡng, trong bối cảnh doanh nghiệp nợ thuế lên gần 930 tỷ đồng (tính đến 30/06/2024).
Công ty TNHH Đảo Ngọc Xanh Kỳ Sơn vừa có lô trái phiếu đầu tiên huy động thành công với lãi suất khá cao 12.5%/năm. Trái phiếu phát hành hôm 19/09 nhưng đến 27/09 mới hoàn tất. Mệnh giá 100 triệu đồng/tp, khối lượng 12 ngàn trái phiếu, qua đó Đảo Ngọc Xanh Kỳ Sơn thu về 1.2 ngàn tỷ đồng.
Trái phiếu có kỳ hạn 5 năm, đáo hạn vào 19/09/2029. Lãi suất áp dụng cho 2 kỳ tính lãi đầu tiên (tương ứng 12 tháng đầu tiên) là 12.5%/năm; và lãi suất áp dụng cho các năm tiếp theo là tổng của 4.5%/năm và lãi suất tham chiếu tại ngày xác định lãi suất của kỳ tính lãi đó. Trái phiếu được bảo lãnh thanh toán của tổ chức tài chính, tín dụng (HDBank). CTCP Chứng khoán HD (HDBS) là tổ chức đăng ký, lưu ký.
Theo công bố trên Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX), đây là lô trái phiếu đầu tiên của Đảo Ngọc Xanh Kỳ Sơn huy động. Công ty hiện là chủ đầu tư dự án khu biệt thự nghỉ dưỡng Đảo Ngọc tại phường Kỳ Sơn và xã Mông Hóa, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.
Dự án có diện tích 36.45ha, trong đó có 10.94 ha đất ở gồm ba khu biệt thự nhà vườn, chiều cao tối đa ba tầng, mật độ xây dựng tối đa 60%; 10.36ha đất cây xanh mặt nước, gồm 18 lô đất cây xanh; 8.36ha đất giao thông, hạ tầng kỹ thuật, trong đó đó 1.59ha là đường giao thông ngoại tuyến; 6.8ha đất dịch vụ công cộng, bố trí các công trình cao tối đa 7 tầng, mật độ xây dựng tối đa 40%, gồm các khu nhà hàng, bar, bể bơi, khu khách sạn, dịch vụ bến thuyền, sân thể thao, khu chuyên đề. Tổng kinh phí đầu tư hạ tầng kỹ thuật và giải phóng mặt bằng dự kiến 250 tỷ đồng.
Đầu năm nay, Sở Xây dựng tỉnh Hòa Bình có thông báo về việc khu biệt thự nghỉ dưỡng Đảo Ngọc đã lựa chọn được nhà đầu tư, ký hợp đồng thực hiện dự án, tuy nhiên chưa đủ điều kiện huy động vốn, chuyển nhượng và kinh doanh bất động sản.
Mặc khác, giữa tháng 8, Cục thuế Hòa Bình công khai danh sách nợ thuế của tỉnh tính đến 30/06/2024, trong đó, Đảo Ngọc Xanh Kỳ Sơn nợ hơn 929 tỷ đồng, đứng thứ hai trên địa bàn tỉnh.
Mối liên hệ với HPX
Đảo Ngọc Xanh Kỳ Sơn có trụ sở tại thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình, thành lập vào tháng 9/2021; là công ty liên danh giữa CTCP Đầu tư Phát triển Xanh Sơn Kỳ và CTCP Tập đoàn Telin với số vốn góp lần lượt 49.5 tỷ đồng và 500 triệu đồng, tương ứng tỷ lệ 99% và 1%. Ông Đinh Văn Cảnh làm Tổng Giám đốc kiêm đại diện pháp luật. Tháng 07/2022, chức vụ của ông Cảnh được chuyển cho ông Phan Văn Điền. Tháng 7 năm nay, tiếp tục đổi sang ông Khuất Hữu Việt. Đầu tháng 8 vừa qua, Công ty nâng vốn lên 455 tỷ đồng. Tỷ lệ sở hữu thay đổi khi Đầu tư Phát triển Xanh Sơn Kỳ tăng lên 99.98%, còn Tập đoàn Telin giảm xuống 0.11%. Hai doanh nghiệp này ủy quyền vốn góp cho hai cá nhân là ông Khuất Hữu Việt và bà Nguyễn Thị Biên, đều thường trú ở Hà Nội.
Ông Việt hiện là Chủ tịch HĐQT Đầu tư Phát triển Xanh Sơn Kỳ. Theo tìm hiểu, Công ty này thành lập năm 2016, với vốn điều lệ 50 tỷ đồng; các cổ đông sáng lập có ông Đỗ Như Cường nắm 30%, ông Đỗ Năng Tuyến 30%, ông Đinh Văn Cảnh 20%, ông Đinh Văn Nguyên 20%. Vào ngày 26/07/2024, Công ty nâng vốn từ 50 lên 455 tỷ đồng.
Hồi tháng 12/2023, HĐQT CTCP Đầu tư Hải Phát (HOSE: HPX) thông qua chủ trương nhận chuyển nhượng 4.99 triệu cổ phiếu, tương ứng tỷ lệ 99.8% vốn điều lệ tại Đầu tư Phát triển Xanh Kỳ Sơn. Tổng giá trị nhận chuyển nhượng cổ phần hơn 434.4 tỷ đồng, tương ứng 1 cổ phần có giá lên đến 87,055 đồng. Thời gian này, Đầu tư Phát triển Xanh Kỳ Sơn do ông Phan Văn Điền làm Chủ tịch HĐQT. Ông Điền cũng từng đứng tên tại CTCP Đầu tư Solaris Việt Nam, một doanh nghiệp liên quan HPX khi từng cùng nắm giữ cổ phần Công ty TNHH HP Hospitality Nha Trang tính đến tháng 08/2022. Đến ngày 09/01 năm nay, ông Bùi Đức Thảo thay vị trí của ông Điền, và đến tháng 7 là ông Việt như hiện nay.
Tại ĐHĐCĐ thường niên 2024 của HPX đã thông qua việc phát hành hơn 307 triệu cp; trong đó có 140 triệu cp phát hành riêng lẻ giá 10,000 đồng/cp. Số tiền thu về, HPX dùng 450 tỷ đồng để góp vốn vào Đầu tư Phát triển Xanh Kỳ Sơn. Thời gian thực hiện năm 2024-2025.
Cùng với việc lãi tiết kiệm phục hồi trở lại, lượng tiền nhàn rỗi người dân mang gửi tiết kiệm cũng tăng mạnh lên tới hàng nghìn tỷ đồng mỗi ngày.
Kể từ cuối tháng 3, nhiều ngân hàng đã bắt đầu điều chỉnh tăng lãi suất tiết kiệm trở lại sau quãng thời gian giảm mạnh trước đó. Chỉ tính từ đầu tháng 7 tới nay, thị trường đã có 10 ngân hàng thông báo tăng lãi suất tiết kiệm cho các khoản tiền gửi của khách hàng cá nhân. Các ngân hàng tăng lãi suất gồm NCB, Eximbank, SeABank, VIB, BaoViet Bank, Saigonbank, VietBank, MB, BVBank và KienLong Bank. Sau nhiều lần điều chỉnh, mặt bằng lãi suất huy động trên thị trường đã tăng rõ rệt.
Khảo sát cho thấy mức lãi suất tốt nhất mà các nhà băng chịu chi trả cho khách hàng cá nhân đang dao động quanh vùng 6-6,1%/năm. Trong đó, hiện có 4 ngân hàng áp dụng mức lãi suất tiền gửi này gồm HDBank, ABBank, NCB và OceanBank. Mức lãi suất huy động 6,1%/năm, cao nhất thị trường hiện nay, được HDBank niêm yết cho tiền gửi kỳ hạn 12 tháng; NCB và OceanBank niêm yết cho tiền gửi kỳ hạn 18-36 tháng và SHB niêm yết cho tiền gửi kỳ hạn từ 36 tháng.
Lượng tiền nhàn rỗi được người dân mang gửi tiết kiệm tiếp tục lập kỷ lục mới
Mức lãi suất huy động 6%/năm đang được OCB niêm yết cho tiền gửi kỳ hạn dài 36 tháng, trong khi BVBank áp dụng mức lãi suất này cho tiền gửi kỳ hạn từ 18-36 tháng.
Đáng chú ý, Ngân hàng SeABank mặc dù niêm yết lãi suất cao nhất 5,7%/năm, nhưng thực tế đang huy động với lãi suất lên đến 6,2%/năm. Trong khi đó, SHB dù niêm yết lãi tiết kiệm cao nhất 6,1%/năm nhưng lãi tiết kiệm cao nhất khách hàng có thể nhận được lên tới 6,6%/năm nhờ chính sách cộng thêm lãi tiết kiệm cho khách hàng gửi tiết kiệm online mới cho kỳ hạn từ 6 tháng trở lên.
Hiện mức lãi tiết kiệm kỳ hạn 12 tháng đang phổ biến trên 5%/năm, trong đó Ngân hàng BVBank niêm yết là 5,8%/năm, GPBank và NCB niêm yết ở mức 5,75% và 5,7%/năm; trong khi Kienlong Bank và BaoViet Bank niêm yết lãi suất 5,6%/năm.
Nhóm các ngân hàng đang niêm yết lãi suất 5,5%/năm cho kỳ hạn này gồm OceanBank và Bac A Bank. Viet A Bank, Nam A Bank và MSB niêm yết lãi suất 5,4%/năm. Các ngân hàng VietBank, Saigonbank, PGBank và CB niêm yết mức lãi suất 5,3%/năm. Nhóm các ngân hàng niêm yết lãi suất từ 5-5,2%/năm cho tiền gửi kỳ hạn 12 tháng gồm: VPBank, TPBank, SHB (5,2%); OCB, MB (5,1%) và Eximbank (5%/năm).
Cùng với mặt bằng lãi suất huy động trên thị trường đã tăng rõ rệt, lượng tiền nhãn rỗi người dân mang gửi tiết kiệm ngân hàng lấy lãi cũng tăng mạnh. Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước, trong tháng 4, tiền gửi của dân cư tăng hơn 39,7 nghìn tỷ đồng, tương đương trung bình mỗi ngày có thêm hơn 1.325 tỷ đồng được người dân mang gửi tiết kiệm ấy lãi và đạt hơn 6,7 triệu tỷ đồng, tiếp tục lập kỷ lục mới. Thống kê cho thấy, lượng tiền gửi của dân cư lũy kế 4 tháng đầu năm tăng hơn 183 nghìn tỷ đồng (2,8%).
Trong đó, tiền gửi của các tổ chức kinh tế tăng hơn 81 nghìn tỷ đồng, đạt hơn 6,7 triệu tỷ đồng. Tuy nhiên, tính chung trong 4 tháng đầu năm, tiền gửi của tổ chức kinh tế vẫn giảm hơn 133 nghìn tỷ đồng (tương đương giảm 1,95%).
Tổng phương tiện thanh toán đến cuối tháng 4 đạt hơn 16 triệu tỷ đồng, tăng 0,13% so với đầu năm.
Cùng với đà tăng mạnh của biểu lãi suất tiết kiệm trong những tháng gần đây, số tiền nhàn rỗi người dân mang gửi ngân hàng cũng thiết lập kỷ lục mới.
Sau khi lãi tiết kiệm xuống mức thấp kỷ lục trong nửa cuối năm 2023 và những tháng đầu năm 2024, các ngân hàng đã bắt đầu điều chỉnh tăng mạnh lãi suất tiết kiệm từ tháng 4 đến nay. Theo đó, từ mặt bằng lãi suất chủ yếu dưới 5%/năm trong những tháng cuối năm 2023, đến nay lãi tiết kiệm cao nhất thị trường đã được các ngân hàng điều chỉnh tăng lên trên 6%/năm ở nhiều kỳ hạn của các ngân hàng.
Theo khảo sát, tại kỳ hạn 18 tháng, thị trường có HDBank, DongABank, OceanBank hiện cùng giữ mức lãi suất 6,1%/năm. Tiếp sau là BacABank với lãi suất 6,05%/năm và Saigonbank, BaoVietBank với lãi suất 6%/năm.
Ở kỳ hạn 36 tháng, NCB tiếp tục dẫn đầu với lãi suất 6,15%/năm. OceanBank, Saigonbank, SHB, DongABank cùng giữ mức lãi suất 6,1%/năm, trong khi BacABank trả lãi 6,05%/năm.
Lượng tiền nhàn rỗi gửi tiết kiệm ngân hàng lấy lãi của người dân tiếp tục lập kỷ lục
Ở kỳ hạn 12 tháng, lãi suất tiết kiệm khách hàng nhận được phổ biến ở mức 5%/năm đến 5,8%/năm. Thống kê cho thấy, so với đầu năm, mặt bằng lãi suất huy động hiện cũng đã tăng 0,5-1% ở nhiều kỳ hạn.
Cùng với đà tăng mạnh của biểu lãi suất tiết kiệm được các ngân hàng niêm yết trong những tháng gần đây, số tiền nhàn rỗi được người dân mang gửi ngân hàng lấy lãi cũng lập kỷ lục mới.
Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước, tính đến hết tháng 7/2024, tổng tiền gửi của người dân vào hệ thống ngân hàng đã đạt gần 6,84 triệu tỷ đồng, tăng 305.672 tỷ đồng, tương đương tăng 4,7% so với cuối năm 2023. Đây là mức cao nhất được ghi nhận từ trước đến nay. So với cùng kỳ năm ngoái, lượng tiền gửi của người dân đã tăng hơn 448.000 tỷ đồng. Đặc biệt, trong tháng 7 vừa qua, số tiền gửi tiết kiệm của người dân đã tăng thêm hơn 21.100 tỷ đồng so với cuối tháng 6/2024.
Thống kê của ngân hàng Nhà nước cũng cho thấy, tiền gửi của dân cư vào ngân hàng tăng liên tiếp trong gần 2 năm qua, bất chấp lãi suất huy động ở vùng thấp kỷ lục trong năm ngoái và 3 tháng đầu năm nay.
Lượng tiền nhàn rỗi được người dân mang gửi tiết kiệm tăng mạnh trong bối cảnh thị trường chứng khoán, vàng, BĐS chứng kiến những rung lắc mạnh thời gian qua.
Ở chiều ngược lại, tính tới cuối tháng 7, lượng tiền gửi của các tổ chức kinh tế vào ngân hàng lại có dấu hiệu giảm nhẹ 1,1% so với cuối năm ngoái, xuống gần 6,77 triệu tỷ đồng, thấp hơn lượng tiền gửi dân cư.
Điều này cho thấy các doanh nghiệp đang chuyển dịch vốn sang các kênh đầu tư khác thay vì tập trung vào ngân hàng. Sự dịch chuyển này có thể do nhu cầu tìm kiếm lợi nhuận cao hơn.